TIẾNG CHUÔNG GIÁO ĐƯỜNG
- Thứ hai - 17/11/2025 08:05
- In ra
- Đóng cửa sổ này
TIẾNG CHUÔNG GIÁO ĐƯỜNG
●Francis Assisi Lê Đình Bảng.
Thật ra, mỗi ý tưởng, mỗi mệnh đề trên đều chứa đựng một nội dung riêng, không hẳn giống nhau. Nhưng để dễ hiểu, dể cảm và gần gặn với mọi người, tôi quyết định chọn: tiếng chuông giáo đường. Vừa bình dân, vừa thi vị. Tiếng chuông thì ai cũng hiểu. Ít oi, nhẹ nhàng, tiếng một. Không đổ hồi, không gấp gáp. Nghe rất gần với thi ca, nên thơ hơn. Đơn giản, nhà quê và Việt Nam hơn.
Trước tiên, cứ hãy nghiệm xem, tiếng chuông giáo đường có cái gì mà thiêng liêng thế? Có điều gì mà thân thiết đến vậy? Nó có họ có hàng bà con gần gặn ruột thịt với ca dao Việt Nam. Nó khiến ta nghĩ ngay tới những câu hát quen thuộc trên môi miệng của đời sống dân gian trong luỹ tre xanh, còn đọng lại trong ký ức, dù cách xa biền biệt một phương trời nào, dù ở bất cứ một thời điểm xa lắc xa lơ nào. Tiếng chuông ấy có phải tiếng chuông chùa làng ta, của giáo đường làng ta? Hay chùa bên, làng xa? Đúng là chuông chùa Thiên Mụ. Nó dẫn ta về, chợt nhớ ra cái khung cảnh của bãi cát, màn sương, soi bóng gương trên mặt Hồ Tây.
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù bãi cát, màn sương
Nhịp chày Yên Thái, bóng gương Tây Hồ.”
Chùa Thiên Mụ gợi nhớ tới những địa danh trong tổng thể cảnh quan ở vùng đất phía Tây của cố đô Thăng Long, tức Hà Nội cũ. Là Trấn Vũ, huyện Thọ Xương, của làng Yên Thái, nơi có nghề giã bột làm giấy cổ truyền từ xa xưa, bên Hồ Tây. Nền nã và yên ả đến nỗi ,mãi sau này, cả mấy trăm năm, một ngàn năm có lẻ, vẫn không thiếu người còn lưu luyến mãi, nhớ đến từng chi tiết. Ôi, sông Hương, con sông có thật, mà như ở trong mơ, đầy ma mị, quấn quýt mãi những nhớ nhung da diết. Con sông chảy, mà như không chảy, chỉ chảy vào lòng, nên Huế rất sâu, rất đằm. Như ai kia, dù đã xa quê, sống giữa ồn ã náo nhiệt của phồn hoa đô hội, vẫn nhớ để ví von:
“Tôi lớn lên bên này sông Hương
Con sông chẻ đôi ra những vùng thương nhớ
Cây trúc Kim Long, sắt thép cầu Bạch Hổ
Cửa từ bi vồn vã bước chân sông
Mặt nước xanh trong suốt tuổi thơ hồng
Tháp cổ, chuông xưa, sông hiền, sóng mọn
Những đêm tối bao la, những ngày tháng lớn
Tiếng chuông buồn vui dợn thấu xương da
Người với chuông như chiều với tối”
(Nhã Ca, 9.1963 )
Đấy là tiếng chuông của chùa Thiên Mụ, làng Kim Long, bên kia bờ sông Hương, ngoại ô kinh thành Huế. Cũng như tiếng chuông nhà thờ. Không hiểu vì sao, có sức lôi cuốn,gây cảm xúc trong tâm hồn người nghe? Chỉ là một tiếng va chạm, một tiếng động, âm thanh bình thường đến khô khốc của các loài kim khí. Chứ đâu phải là tiếng ngọc vỡ, châu chìm gì cho cam? Nhưng rõ ràng, là âm u, kỳ diệu, mê hoặc. Bởi thế, đời nhà Đường, mới có ông thi nhân nằm ngủ qua đêm trên con thuyền đậu dật dờ ở bến Cô Tô. Giữa đêm khuya, thức giấc nghe tiếng chuông chùa Hàn Sao vọng lại, vang ngân trên mặt nước, ngẫu hứng ngâm tràn bài thơ hào sảng:
“Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh náo khách thuyền”
(Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sao - Tản Đà chuyển dịch)
Hồi chuông chùa Thiên Mụ gióng lên mỗi sớm mai bên kia bờ sông Hương, Huế. Như muốn nhắc nhở người ta rằng mọi chuyện trên cõi đời này đều là phù hư, giả tạm, vô thường. Như ai kia đã cảm thán:
“Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm
Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa”.
Thiên Mụ, đôi khi còn gọi là Linh Mụ, ngôi chùa cổ xa xưa trên ngọn đồi của xã Hương Khê, huyện Hương Trà, kinh thành Huế, có sách sử ghi là từ năm 1553.Cái thế đặt chuông bấy giờ, vẫn toạ lạc trên đồi cao hơn mặt nước sông Hương khiến âm thanh truyền dẫn đi xa thật xa. Chuông đó đúc năm Canh Dần (1710) với đặc tả: Cao 2m50; R 1m40; P 1.986kg. Có bài chú nguyện cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an. Nghe đồn rằng năm xây tháp Từ Nhân này, từ giữa thế kỷ XVIII, có văn bia và bài mịch ghi rằng “Bách bát hồng thanh triệu bách kế/ Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên” có nghĩa là 108 tiếng chuông làm tiêu tan trăm nỗi kết muộn phiền/ ba nghìn thế giới tỉnh ba duyên. Nhưng qua thời gian và binh biến, loạn ly, thiên tai, chuông ấy biến đi đâu mất tăm mất tích?
Chuông hiện nay là chuông Gia Long niên hiệu thứ 14 (1815), có quy cách, phẩm trật định liệu đàng hoàng. Người đánh chuông là người giữ nhịp thời gian do triều đình cắt cử, sắp xếp. Có đánh, có thỉnh thì thỉnh chuông vào 2 thời điểm nhất định trong ngày: 3 giờ 30 sáng và 7 giờ 30 chiều tối. Thỉnh đúng 108 tiếng đều nhịp, ngân nga trong thời hạn 60 phút, chia ra đêm 5 canh và ngày 6 khắc, để xoá tan 108 nỗi phiền muộn trong thế gian. Thế gian trong tam giới có: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới đều có chung bát khổ là sinh, lão, bệnh, tử; ngũ ấm xí thạnh; oán tần hội; ái biệt ly, cầu bất đắc khổ. Dân gian kể, người xưa gắn liền chuyện hiểu biết với hạnh nguyện đánh chuông, nghĩa là biết người đánh chuông khoẻ/ yếu, vui/ buồn. Tiếng chuông chùa Thiên Mụ vang xa khắp vùng Nguyệt Biều, Long Hồ, Ngọc Hồ mãi bên kia sông ai cũng nghe rõ mồn một.
2. Đã nói đến chuông thì cũng phải nói đến nghề đúc chuông luôn thể. Nghề này không dễ đâu. Phải có linh thánh, nghiệp tổ, cha truyền con nối, có căn tu, tính hạnh mới hành nghề được. Cả Bắc, Trung, Nam nước ta chỗ nào nơi nào chả có. Nhưng chân truyền chính thống thì hiếm, nhất là những năm gần đây, chiến tranh, thiên tai dịch hoạ và nhịp đời đô thị - công nghiệp hoá bỗng nở rộ. Chán vạn kẻ tay ngang vào nghề. Nếu ở miền Bắc có Kiên Lao, Trung Lao thì ở miền Trung, còn nghe tiếng có làng nghề Phường Đúc và một hai nơi của Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định… con cháu rơi rớt giữ nghề này.
Đặc biệt, nghe kể, chuông làng Phước Kiều danh trấn một phương ở xứ Quảng. Ông Dương Ngọc Chúc, còn có tên Dương Không Lộ là một trong những bậc tiên hiền dày công khai mở và lưu cữu nghề đúc đồng Phước Kiều, tính đến nay đã trải 400 năm. Làng nghề toạ lạc trên khu vực dinh trấn Thanh Chiêm xưa của xứ Đàng Trong (nay là xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam), từng ít nhiều, gần xa tham gia đúc loại súng thần công từ thời các chúa Nguyễn vào mở cõi ở phương Nam, đánh Xiêm, kháng Pháp. Đến đời Minh Mạng thứ 6, nghệ nhân làng Phước Kiều còn đúc được tiền, ấn tín, đĩnh, vạc, lư hương, giáo mác cho triều đình Huế. Những năm sau chiến tranh và bao cấp, làng nghề tản mác dần. Nay cả làng, nhờ du lịch phát triển, đã lại có hơn 30 gia đình, hơn 100 nghệ nhân, thợ đúc làm sống lại nghề truyền thống. Từ đó, một chiếc chiêng lớn nhất Việt Nam đúc từ năm 2008 có đường kính 2.5 mét; trọng lượng 700 kg ra lò. Họ cũng đã đúc được đại hồng chung từ 400 kg - 500 kg cho các chùa tại Đà Nẵng, Tam Kỳ. Có một số nghệ nhân nổi tiếng thẩm âm thiên phú đã được thỉnh vào các chùa ở Vũng Tàu đúc chuông 600 kg và một công trình đại hồng chung nặng 1.8 tấn cũng đã hoàn công mỹ mãn. Người dân làng Phước Kiều vừa nổi tiếng nhờ pha chế, nung đúc các kim loại là một lẽ; họ cũng có biệt tài trời cho đôi tai thẩm âm, đã làm cho tiếng ngân những sản phẩm thờ tự, lễ hội (cồng chiêng cho các buôn làng vùng cao) của họ ngày càng trở thành một giá trị truyền thống riêng biệt. Không có họ, chỉ rặt là thứ kim khí pha tạp loảng xoảng, vô hồn. Ngoài ra, còn phải kể đến giá trị văn hoá đặc biệt của dân làng Phước Kiều, vì nơi đây cách 400 năm, đã là chiếc nôi để các giáo sĩ De Pina, C. Borri, Alexandre De Rhodes an trú, giảng đạo và sáng tạo ra chữ viết quốc ngữ theo lối La Tinh mà chúng ta xử dụng cho đến ngày nay.(1)
Nghe tiếng chuông, biết phân tích và đánh giá đúng độ tuổi và sinh mệnh của chuông, thật sự là một nghệ thuật không dễ chút nào. Cũng là chuông, nhưng phải tách bạch chuông Tây, chuông nam, chuông đồng, chuông vàng bạc quý kim, chuông già lửa hay chuông đúc non v.v... Có nhiều điểm tương đồng và dị biệt giữa chuông nhà chùa và chuông nhà thờ. Phân tích kỹ, cả hai đều mang ý nghĩa khác nhau.
- Chuông chùa thường là chuông nam (chuông ta) bằng đồng, mỏng, dùng chày vồ bằng gỗ thúc theo chiều ngang từ ngoài vào mấy cái núm nhô lên ở xung quanh thân chuông, gây ra hiệu lệnh, gõ đều nhịp từng tiếng một để thỉnh theo tiếng tụng kinh. Các tăng ni cứ theo đó mà tuân thủ giờ giấc và thỉnh mời thiện nam tín nữ vào cuộc tụng kinh niệm Phật. Chuông đặt (treo) trong lòng gác khánh ngay trong khuôn viên chùa, tiếng chuông vì thế, không vang xa, mặc dù vẫn nghe chuông ngân nga theo lời kinh ê a rền rĩ. Bỗng nghĩ đến chuyện cắt đứt dây chuông chùa xưa trong truyện tình Lan và Điệp và lại nhớ truyện tình chú tiểu Lan và Ngọc ở chùa Long Giáng, trong Hồn Bướm Mơ Tiên của nhà văn tài hoa yểu mệnh Khái Hưng.
- Chuông nhà thờ: thường là chuông Tây (thuê đúc ở Marseille, một tỉnh nổi tiếng đúc chuông của Pháp) một hợp kim bằng đồng đỏ+vàng+bạc nấu kỹ trong lò lâu hơn, khó hơn; độ dày hơn; trọng lượng nặng hơn; miệng chuông loe ra, có cái cả thước hoặc hơn. Khi giật, kéo, đẩy chuông để con lắc (quả đòi) va lắc qua lại, tác động vật lý từ bên trong; chuông lắp đặt trên tầng tháp cao so với mặt đất, nên vang xa hơn. Nghe nói phải thuê đúc từ cả năm trước, chở bằng tàu hàng hải mấy tháng mới về tới nhà. Chuông lớn và nặng, cột dây cáp hoặc da trâu da bò, dây thừng lớn, khi kéo, chuông và quả đòi nặng cuốn cả người giật chuông đu đưa lên xuống. Chuông làng tôi lớn, có sức kéo một người lớn lên cao, xuống thấp. Đã có lần dại dột, lũ trẻ con chúng tôi đeo bám dây chuông. Ai dè, sức nặng quả đòi kéo nhấc bổng hai đứa trẻ chúng tôi lên, hết hồn. Nếu nhắm mắt và lắng nghe, sẽ thấy có khác biệt và thú vị lắm. Mặc dù cả hai đều là chuông đồng, loại kim khí có mục đích gây sự chú ý, tập trung suy nghĩ, xả bỏ những áp lực của hiện tại, chữa lành thân tâm.
Theo ngũ hành, chuông (kim)+ chày (mộc)= nhịp khoan hoà. Chuông không rung lắc, theo thể tĩnh, âm thanh theo chiều thẳng đi xuống( thổ)= âm thương, trầm độ vang ít.
Theo ký âm học, chuông chùa có âm hưởng Rê- Mi từ 417-569 hz giúp loại bỏ tắc nghẽn tâm thức, cân bằng ADN, thôi thúc tình cảm và xả bỏ phiền não hệ luỵ. Chuông nhà thờ có âm hưởng Sol-La từ 529-890 hz đánh thức giác quan, kết nối cộng đồng, tăng gia cảm xúc, cân bằng suy nghĩ, dẫn dắt hành động.
3. Đến Kim Sơn, Ninh Bình với nhà thờ đá Phát Diệm của Cụ Sáu Trần Lục lại là một khám phá kỳ thú, khó tả. Chỉ nói riêng chuyện mấy cỗ chuông thôi nhé. Xin lỗi, tôi phải lạy Cụ là bậc kiệt xuất, cả về mặt văn hoá, mục vụ và tài năng xoay xở, xây cất, sắp xếp trong ngoài ngôi nhà thờ để xứng đáng được tôn vinh vào hạng “di sản văn hoá quốc gia”. Hãy tưởng tượng, trong hoàn cảnh lịch sử và kinh tế khó khăn cuối thế kỷ XIX, với điều kiện cực kỳ thiếu thốn, thô sơ về kỹ thuật, nguyên một việc tính toán để thực hiện được một công trình kiến trúc quy mô, vĩ đại như thế, thật đáng tâm phục khẩu phục lắm rồi.
Ngạc nhiên chưa, từ lối kiến trúc đình chùa phương Đông đến bố cục cảnh quan các hạng mục, tượng ảnh, phương hướng, phong thuỷ. Đặc biệt ở cái tháp chuông, bộ chuông, tiếng chuông rất riêng. Nghe đâu, Cụ Sáu (Cha Phê rô Trần Lục, 1825-1899) cho đặt riêng chuông ở phương đình, hoàn thành năm 1899, là một công trình kiến trúc tháp chuông nhà thờ pha lẫn đình làng+ cổng thành của kinh thành cố đô Huế. Bản ký hoạ văn hoá nghệ thuật nhà thờ đá Phát Diệm cho ra những ẩn số sau đây.
Là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia, nhà thờ đá Phát Diệm gồm nhiều công trình: Phương đình, nhà thờ lớn, hang đá, nhà thờ đá… Toàn bộ công trình do cha Trần Lục( thường quen gọi là Cụ Sáu) chủ trì xây dựng từ năm 1875 đến năm 1899 mới hoàn thành. Đất vùng này là phù sa bồi đắp nên yếu. Để có nền móng vững chắc, cụ Sáu đã cho đóng ngập xuống một”rừng tre” sâu tới 30 thước. Những phiến đá hoa,cột gỗ lim trắc quý nặng hàng tấn được voi, trâu và bè nước dịch chuyển kết hợp với sức tính toán của đầu óc con người, từ rừng núi Thanh Hoá, Châu Lào cách đó hàng vài chục cây số. Khác biệt hoàn toàn với những nhà thờ Công giáo bấy giờ đang xây theo phong cách của phương Tây, như Gothic hay Roman, Phát Diệm mang một dáng dấp rất Việt Nam. Công trình được bố trí theo phong thuỷ, với hồ nước là minh đường tụ thuỷ( để tích phúc) và núi phía sau là hậu chẩm tựa sơn (chỗ dựa vững chắc). Riêng phương đình( tháp chuông) gồm 3 tầng, trên tầng 3 có treo quả chuông nặng gần 2 tấn đúc nấu từ năm 1890. Hai mái uốn cong hình mũi thuyền, gợi nhớ ngôi đình làng truyền thống của ta. Nhà thờ Trái Tim Đức Mẹ (15.3 x 8.5 m) có song cửa, tường, cột nền hoàn toàn bằng đá trụ, nên thường gọi là nhà thờ đá. Phù điêu tạc từ đá xanh nguyên khối. Nhiều hoạ tiết được nghệ thuật chạm trổ tinh xảo, vẽ nên tứ cảnh tứ bình: tùng, mai, cúc, trúc, phong, hoa, tuyết, nguyệt, ngư, tiều, canh, mục. Nhà thờ lớn có kích thước: dài 74m, rộng 21 m, cao 15 m. Trong thánh đường, chia làm 10 gian, có 52 cây cột gỗ lim nguyên cây, trụ đá dưới chân; hàng cột giữa, chu vi 2.4m, cao gần 12 m. Các phù điêu khắc chạm hình thiên thần bưng bình nước phép, trên tường 5 lối vào nhà thờ đều có khắc các câu trích từ Kinh Thánh bằng tiếng La Tinh. Báo L’Avenir du Tonkin năm 1938 mô tả: “Những cảnh diễn lại sự tích trong Kinh Thánh, đều có bóng lá sen, cây cau, cây chuối che phủ. Và ở trên lại có mấy pho tượng thiên thần, trông như nhà bày cảnh muốn đem cái tâm hồn nước Nam thu vào một cảnh con con tươi đẹp ấy để dâng lên đấng Chí Tôn nơi cửu trùng.”(2)
Chuông ở đây là chuông (chuông Tây + chuông Nam) đánh bằng chày vồ thúc ngang lưng thân chuông, tập trung vào 4 cái núm vú đúc nhô cao, có dụng ý thâu thập âm thanh cao thấp. Chuông được đúc năm 1890, có nhiều chi tiết đáng lưu ý: cao 1.90 m (cao hơn người đứng thẳng); đường kính 1.1 m; nặng non 2 tấn; 4 núm khắc tên 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông; tiếng chuông có thể vang xa hơn 10 km, lan trên mặt hồ ao trong khuôn viên và ao hồ mênh mông, như bản thân tôi đã từng lắng nghe và định lượng. Bốn phía mặt chuông đều có khắc chữ:
- mặt tây bắc: chữ La Tinh: Laudo Deum verum, voco plebem, congrego clerum, defunctos ploro, pestum fugo, festa decoro (tôi ca tụng Chúa, tôi gọi mời dân chúng, tôi triệu tập giáo sĩ,tôi than khóc người qua đời, tôi xua tan dịch tễ, tôi điểm tô ngày lễ hội). Đọc và suy nghĩ kỹ những dòng ghi chú này, ta thấy tiếng chuông nhà thờ đá Phát Diệm chuyên chở nhiều âm vực trầm bổng cùng ý nghĩa mang đậm tâm linh: ngợi ca, kêu gọi, triệu tập, than khóc và tô điểm. Như một dàn hợp âm khi rộn rã, tưng bừng, hoan hỷ; lúc lại chậm rãi, khoan hoà, tha thiết. Hẳn ai nấy không thể nào quên những hồi chuông vang lên trong các bài thánh ca mùa Giáng Sinh nơi các nhà thờ đêm Noel: Đêm Thánh Vô Cùng, Silent Night Holy Night, Jingle Bell, Cao Cung Lên…trong ngày lễ Giáng Sinh nơi các nhà thờ Công giáo.
- mặt tây nam là những dòng chữ: Sancta Maria, Sanctus Joseph, Sanctus Johannes Baptista, Anno Domini 1890. Đây là thánh danh của Đức Mẹ Maria, Thánh Giuse, Thánh Gioan Baotixita và đánh dấu Năm Thánh 1890.
- mặt đông nam: Phát Diệm xứ công vật (tài sản chung của giáo xứ Phát Diệm).
- mặt đông bắc: Thành Thái Canh Dần, 1890. (Chuông đúc dưới triều vua Thành Thái, năm Canh Dần, 1890).
Chuông nhà thờ có nhiều hiệu lệnh:
- Chuông báo thức: 3-4 giờ mỗi sáng sớm (sớm, muộn tuỳ theo hoàn cảnh địa lý, khu vực). Khởi đầu là 1,2,3 tiếng cách nhịp; rồi tiếp một hồi dài không kể. Người nhà quê có thói quen dậy sớm, nghe chuông (chuông nhất, chuông hai) để đọc kinh dâng mình. Ai nấy, chẳng cần nhắc nhở, biết ngay là chuông báo thánh lễ. Ở các thành phố thì chuông báo trễ hơn, chừng 5, 6 giờ sáng, vì có ý để người dân thành phố ngủ thêm.
- Chuông giữa ngọ: 12 giờ trưa. Gõ 3 tiếng đều nhịp, tiếp theo là một hồi dài, gọi là chuông Truyền Tin. Đưa tay làm dấu thánh giá và xướng kinh Truyền Tin: Đức Chúa Trời sai Thánh Thiên Thần Truyền Tin cho Đức Bà Maria. Mùa Chay và Thương Khó, nguyện kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng…
- Chuông chiều: 4-5 giờ mỗi chiều, khi nắng tắt, trời ngả bóng chạng vạng. Chuông chiều ở nhà thờ thường trùng hợp với chuông nhà chùa và tiếng trống thu không của đình làng. Mọi người thu xếp công việc đồng áng, chợ búa để về nhà.
- Chuông báo tử: khi có người qua đời. Chuông đổ 1,2,3 tiếng rồi ngân nga thêm 7 tiếng cho nam và 9 tiếng cho nữ. Ai nấy im lặng một phút, thầm đọc Kinh Vực Sâu cầu cho người quá cố.
- Chuông báo động: khi có biến, chẳng hạn chiến tranh, hoả hoạn, dịch tễ, vỡ đê, lũ lụt. Chuông đổ hồi gấp gáp, dồn dập. Nhà thờ lúc ấy thường là nơi yên bình nhất để người ta tựu về, nương náu.
Có ai ra Huế, vào thăm nhà thờ giáo xứ Phường Đúc, tại địa chỉ 321 Bùi Thị Xuân,
Bên dưới miệng chuông, ghi rõ hàng chữ: Đồng Khánh Năm Mậu Tý(1888), tiết tháng 2.Phường Đúc, thành phố Huế, ngôi nhà thờ cổ đã có lịch sử gần 400 năm. Riêng xưởng đúc đồng của Phường Đúc, nghe đâu trước kia là xưởng đúc súng thần công,có từ năm 1658, đời chúa Hiền Vương. Là dân nội ngoại thành Huế, mỗi sáng sớm, ai nấy đều nghe rõ tiếng của hơn một trăm ngôi chùa lớn nhỏ đồng loạt thỉnh chuông. Trong chùm âm thanh đạo hạnh ấy, có pha lẫn tiếng chuông nam của nhà thờ An Vân và Phường Đúc xen kẽ. Được biết, nhà thờ An Vân được xây dựng muộn lắm cũng là từ năm 1907 tại 118 Lý Thần Tông, làng An Vân, xã Hương An, huyện Hương Trà, cách kinh đô Huế non 8 km về phía Tây Nam. Nơi đây có tên rất Việt Nam, là Thánh Đường Thánh Mẫu Môi Khôi. Giáo dân An Vân sùng kính Đức Mẹ rất đặc biệt, thể hiện qua đài Đức Mẹ ở mặt tiền, trên thân chuông có một bài minh khắc thuần chữ Hán, là kinh “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ Rất Nhơn Từ, Xin Hãy Nhớ xưa nay chưa từng nghe có ai chạy đến…”