ĐÔI DÒNG CẢM NHẬN KHI ĐỌC THƠ LÊ ĐÌNH BẢNG
- Thứ ba - 16/09/2025 23:38
- In ra
- Đóng cửa sổ này

Đôi dòng cảm nhận khi đọc bài thơ « Ngày mai, lễ khấn dòng », « Và em, Lễ khấn dòng »
Cái thú khi đọc thơ Lê Đình Bảng giống như cảm giác được ngắm nhìn và thưởng lãm một bông hoa với nét duyên dáng và hương sắc tươi mới, ngọt ngào riêng biệt ; hay giống như cơ may được thưởng nếm một món ăn mới lạ mà hương vị độc đáo làm ta ngất ngây.
Vậy đâu là bí mật của cái « hoa thơm » và « món lạ » trong tập thơ mới của Lê Đình Bảng mang tên «Và em, Lễ khấn dòng » ? Theo thiển ý cá nhân, thơ ông là thứ « hoa đất » tươi nở từ hạt giống đức tin Công giáo sâu thẳm, được vun trồng và nuôi dưỡng trong đất trời Việt Nam phong nhiêu trong cả sự sống tự nhiên lẫn siêu nhiên. Có gì lạ khi mà « hạt giống Tin Mừng » được gieo trên mảnh đất Việt gần 500 năm nay, kể từ khi nhà truyền giáo Âu châu đầu tiên mang tên I-nê-khu, theo sử sách Việt Nam, đặt chân đến xứ sở này ? Như quy luật của tự nhiên, hạt giống mới thì sinh ra cây quả mới ; rồi cây mới lại tác động, âm thầm nhưng vững chãi, lên các mối tương quan chằng chịt trong hệ sinh thái để rồi tạo nên một « môi trường » mới, theo nhịp điệu và vòng tuần hoàn của vũ trụ. Thế rồi, công việc canh tác đất đai (cultura) để sinh hoa màu lại được mở rộng để « canh tác tâm hồn », trau dồi tinh thần (cultura animi) để sinh ra văn hóa (culture), cái phần thăng hoa của con người – giống vật chân đạp đất nhưng lòng hướng thiên và hướng thượng. Làm gì có thể tồn tại một « đức tin trần trụi », hay một « tôn giáo đơn thuần » theo cách diễn đạt sống động của thần học gia-hồng y Joseph Ratzinger, vì mọi tôn giáo đều làm trổ sinh văn hóa, một nền « văn hóa đức tin »[1] !
Trong viễn tượng đó, tập thơ và đặc biệt hai bài thơ « Ngày mai, lễ khấn dòng », « Và em, Lễ khấn dòng » của nhà thơ Công giáo Lê Đình Bảng cống hiến cho độc giả một ví dụ sống động của nền thơ văn Việt kín múc nơi suối nguồn của đức tin Công giáo Việt. Cái tài tình của thi sĩ là cho ta cảm nhận cái chất rất đỗi thường ngày của một làng quê Việt được thấm đẫm trong « văn hóa niềm tin » Công giáo. Thật vậy, độc giả như được dẫn nhập vào những thực tại của con nhà đạo, như « lễ khấn dòng », « đồng tế » « lễ Truyền Tin Đức Mẹ », « lễ buộc », « khăn lúp », « đền thánh », « giờ kinh sớm chiều », « dọn mình », « thông công », với những chủ thể gắn với những thực hành tôn giáo như « Chúa », « các cha », « mười cô trinh nữ », « Thánh nữ Tê rê sa », « nhà dòng », vv. Tuy nhiên, cần minh định rằng, ở đây, cái thế giới được tái hiện không phải là thế giới tôn giáo tự thân như trong một cuốn sách suy tư thần học hay giảng dạy giáo lý, mà chỉ đơn giản là nhát cắt hiện sinh của một cái tôi giữa đời thường, nhưng là một đời thường của một tín hữu Công giáo Việt. Cái tôi Công giáo đó cũng đầy rung cảm, những rung cảm rất giản dị :
« Tôi đứng mãi đàng xa, tít tắp
Chờ bầy chim trắng thoáng bay qua…”
“Nên cứ ngây người ra, sửng sốt”
“Say khói, say hương thôi, ngỡ là..”
(« Ngày mai, lễ khấn dòng »)
Cái tôi của một chàng trai buồn nhớ, tương tư vì người con gái mình thương, mình quý giờ đã định hướng cuộc đời để dấn thân vào đời sống tu trì :
« Cũng buồn, cũng nhớ mông mênh
Cũng tương tư cả giờ kinh sớm chiều »
(« Và em, Lễ khấn dòng »)
Nhưng cái riêng, cái độc đáo trong hai bài thơ trữ tình của thi sĩ Lê Đình Bảng chính là sự khéo léo trong việc lột tả cái tôi Việt đó dưới lăng kính của con người Công giáo. Cảm xúc « ngây ra, sửng sốt » của chủ thể (« tôi ») trong bài « Ngày mai, lễ khấn dòng » được miêu tả trong cái không gian thánh thiêng Công giáo giàu trải nghiệm « nhập thể » của âm thanh (« tiếng hát trong ngần quá », « dìu dặt thánh ca »), của cảm nghiệm giác quan (« bát ngát hương », « say khói », « say hương », « tòa uy linh »). Chính trong không gian văn hóa Công giáo đã được Việt hóa đó người thi sĩ đã làm thăng hoa cảm xúc của của chủ thể bằng cách tao ra một thị kiến nhuộm màu huyền bí (vision mystique ), qua lăng kính của trí tưởng tượng, vốn dĩ là một đặc tính nền tảng của ngôn ngữ thơ ca :
« Có phải, Em về từ cõi khác
Hiện hình Thánh nữ Tê rê sa »
Ranh giới giữa thực và hư, đời và đạo, « em » và « Thánh nữ » dường như bị xóa nhòa để nhường chỗ cho một cảm xúc con người đã được thánh thiêng hóa trong nhãn quang của niềm tin tôn giáo. Thật vậy, khi trích dẫn câu nói nổi tiếng của Thánh nữ Tê rê sa trước lúc qua đời : « Từ trời Cao, Em sẽ làm mưa hoa hồng rơi xuống trần gian! », thi sĩ như thể nhìn thấy nơi người con gái giờ thành nữ tu bóng dáng của một ơn gọi cao quý, thánh khiết : trong vai trò nữ tu, « Em » sẽ làm lan tỏa Tình yêu (biểu trưng bởi hoa hồng) và « Thái hòa » cho cả thế gian.
Sau hết, ở đây, cái tài tình của thí sĩ còn bộc lộ trong việc sử dụng điêu luyện cách diễn đạt của giai điệu ca dao ngọt ngào, đằm thắm, mênh mang :
« Mỗi lần ra đứng, trông mong
Gởi hương cho gió, vào trong tường rào”
“Gởi thêm một chút chênh chao
Nhỡ mai, cách trở, ba đào, dặm khơi”
(« Và em, Lễ khấn dòng »)
Hay sức mạnh sâu thẳm của những câu chuyện cổ tích dân gian đầy triết lý sống, đạo làm người :
« Ta về, đọc truyện Trương Chi
Thì ra, người ấy cũng y như mình »
Thơ ông đọc lên nghe rất đỗi thân quen, giống như khi ta thưởng thức những món ăn quen thuộc, truyền thống : đơn giản vì « chất liệu » ông dùng là những cái làm nên khung cảnh sống cả ngàn đời của con người xứ Việt : « lúa mùa con gái », « đường đất liên thôn », « vụ chiêm Xuân », « hoa xoan », « ngõ », « con chích chòe », « bầy chim trắng », « đêm nguyệt thực », « bông hoa quỳ », « nụ tầm xuân », « ba đào », « ngọn heo may », vv.
Đọc thơ ông, tôi cảm nhận như một hành trình đang mở ra phía chân trời. Cái chất hiện sinh giản dị nhưng rất thật tao nên tính nhân văn của những vần thơ rất người. Trải nghiệm sâu lắng của một tương quan bất thành, bất toàn :
« Em về bên ấy, hương hoa
Buồn. Ta ra đứng ngã ba, trông vời »
Lại như là một tiền đề để mở lòng đón nhận cái giới hạn, mong manh của phận người, để tiếp tục hành trình của người lữ khách trên cõi trần này, giữ lòng mãi hoài mong, chờ đợi, kiếm tìm Cái Tuyệt Đối, Đấng Tuyệt Đối…
Thomas Hoàng Anh Ngọc
Angers, 11/03/2025
[1] ‘Christ, Faith and the Challenge of Cultures’, Cardinal Joseph Card. Ratzinger Meeting with the Doctrinal Commissions in Asia (Hong Kong), 1993
[1] ‘Christ, Faith and the Challenge of Cultures’, Cardinal Joseph Card. Ratzinger Meeting with the Doctrinal Commissions in Asia (Hong Kong), 1993