KINH VÀ THƠ

Thứ hai - 02/06/2025 09:13
KINH VÀ THƠ là hoài niệm và suy tư sâu sắc về mối giao hoà giữa Kinh và Thơ trong đời sống đức tin người Công giáo Việt. Từ ký ức làng quê, từ những trang sách cổ, tác giả lê đình bảng mở ra một kho tàng ngôn ngữ thiêng liêng, nơi lời kinh trở thành thơ, và thơ hoá thành lời cầu nguyện.
KINH VÀ THƠ

KINH VÀ THƠ


●francis assisi lê đình bảng.

 

 1.Kinh là kinh. Thơ là thơ
 

Tôi tin ngôn ngữ, như con người, có sức sống, có linh hồn… Còn nhớ, suốt những năm tháng tuổi mọn ở làng quê - xứ đạo, bọn trẻ con chúng tôi, ngoài chút kiến thức tầm tầm, do thầy đồ, cha xứ, thầy xứ dạy dỗ, hoặc góp nhặt dông dài từ sách vở, trường lớp, chỉ có rặt một loại hiểu biết ăn đong từng bữa, tụng tiệm qua ngày, từ văn hoá truyền khẩu dân gian. Đó là cái vốn truyền đời từ ông bà, cha mẹ. Là mớ kinh sách, vè vãn, ca ngâm, tuồng truyện, thi phú, chương khúc của nhà đạo. Đại loại, như Sấm Truyền Cũ, Hạnh Các Thánh, Ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó Đức Chúa Giêsu, Tập Dụng Thần Công, sách Tháng Đức Bà, sách Thiên Thần Thổi Loa, Truyện Ông Thánh A lê Xù, Ca Vè Cụ Sáu Khá giả một tí, là con ông Trương, ông Trùm, cháu bà Quản, ông Câu, ông Biện thì mới sắm sanh được một quyển Sách Kinh bìa cứng, bọc vải, giấy viền điều. Đấy là Thánh Giáo Kinh Nguyện, Mục Lục, Nhựt Khoá hoặc Toàn Niên Kinh Nguyện, món hiếm quý của những người buôn chuyến hàng bồ, mỗi năm cứ vào dịp định kỳ - Giáng Sinh, Phục Sinh, lễ thánh phụ Phan xi cô Assisi quan thầy giáo xứ - có mở tuần đại phúc, phiên chầu lượt, mời được các cha dòng Đa Minh hay Dòng Chúa Cứu Thế về giảng phòng. Khắp trong ngoài giáo xứ, mọi sinh hoạt đồng áng, bán buôn, thuyền lưới đều nghỉ hết, để lo việc dọn dẹp, sửa sang phần hồn cho tươm tất, thanh thoả. Còn Sách Nguyện Officium của các cha bằng tiếng La Tinh, in đâu ở bên Tây, bên toà thánh Roma. Giấy mỏng tơi, thơm phức mùi trầm quế là thủ bản bất ly thân của cha xứ khi dâng lễ, khi một mình nguyện ngắm. Chẳng ai dám đụng chạm vào, vì biết đấy là của thánh, cha đã làm phép, thiêng lắm, chỉ kính nhi viễn chi. Nói không ngoa, đến thầy già, bà phước giúp bàn thánh còn phảithủ lễ, thắp hương, làm dấu thánh giá” đứng đàng xa nữa,là bọn nhóc tinh nghịch như chúng tôi. Đôi khi, cha xứ, thầy già trẩy đi đâu vắng, chúng tôi liều mạng bảo nhau, kiễng chân lên bàn thờ, lấy trộm sách ấy mà ngắm nghía, gọi là hưởng chút hương hoa thánh thiện. Đức tin con nhà đạo dạy chúng tôi, mỗi câu chữ trong ấy, đều là lời Chúa, phải nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Phải trân trọng giữ gìn, như giữ gìncon ngươi trong mắt mình” vậy.
 

Nói thật lòng, tất tần tật cái vốn liếng chữ nghĩa ấy đã nuôi sống, đã thổi chúng tôi lớn lên, đã chắp cánh cho chúng tôi vào đời, đi qua những bến bờ, bão giông, thử thách. Bảo đấy là di sản ông bà, cha mẹ để lại cho con cháu - ngoài vuông đất làm nhà, thửa vườn trồng tạm bợ vài thứ rau rợ và đám ruộng gieo mạ cấy lúa giống - cạnh quyển sách gối đầu giường là Sấm Truyền (Kinh Thánh) và tập Ca Vè Cụ Sáu.
 

Của cải mẹ cha cho, có vậy
Để dành, khi con lớn, con khôn
Những phiên chầu lễ, câu kinh hạt
Đã thấm vào thịt da, máu xương
Đã nên nhân đức, nên lòng đạo
Nuôi sống cả đời con, xác hồn”

 

(Mùa Trăng Vu Lan, Nhớ Mẹ)

2.
Ngạn ngữ nhà đạo có câu luật cầu là luật tin”. Đành rằngcó cầu có thiêng, có kiêng, có lành”. Nói phải có sách, mách phải có chứng. Trên tay tôi ngay lúc này, hiện đang mở, mắt đọc mà lòng suy, gẫm lại kỹ càng từng chữ, từng lời cùng những chuyển biến, khác biệt của chúng trong mấy quyển sách Kinh, để tìm ra đáp số, giải mã cho ý nghĩ ban đầu của tôi, gần như là một tiền đề:Kinh là Thơ và Thơ là Kinh”. Đó là 3 quyển: Thánh Giáo Kinh Nguyện (1901); Mục Lục (1906); Mục Lục Nhựt Khoá (1914) và Toàn Niên Kinh Nguyện, do Mẫu Tâm Văn đoàn in ấn (1957). Mỗi sách, là của sở hữu của từng vùng miền, có một ngôn ngữ , một cách diễn tả và suy nghĩ của từng vùng miền địa lý, từng không gian văn hoá, từng sinh hoạt riêng, từng khí hậu và thổ nhưỡng riêng. Có những mẫu số chung. Mà không thiếu những vốn riêng. Chẳng hạn, sách in ở Kẻ Sở, Kẻ Riền, Sở Kiện, Thăng Long là chốn ngàn năm văn vật, của Thăng Long, của Hà Nội văn miếu. Đọc kỹ sẽ nhận ra ít nhiều dấu vết kinh kỳ xa xưa, khi giáo sĩ Alexandre De Rhodes, H. Majorica đã dạy dỗ. Là quốc âm, quốc ngữ thuở hừng đông của sách Phép Giảng Tám Ngày, của sách Thiên Chủ Khải Mông, đất lành chim đậu. Lui vào miền đồng cói Nga Sơn, Thanh Hoá, sang làng cửa biển Ông Thánh Giuse, Kẻ Bạng, Ba Làng và xuôi về Kim Sơn, Phúc Nhạc, Phát Diệm, là được nghe cái chất giọng răng lưỡi đằng tả rõ ràng của một vùng riêng biệt đất Tràng An. Ở đấy, lung linh một cõi với quần thể nhà thờ- nhà xứ liền lạc cây dài bóng mát của Cụ Sáu Trần Lục. Của Vè Vãn, Than Mồ. Của mùa Thương Khó rộn ràng khăn áo, lễ tang. Vào đến Nghệ Tĩnh Bình là vùng cấm của núi non Hồng Lĩnh âm u kỳ bí, nghe trong kinh kệ tiếng u buồn của hát ví, hát dặm. Người lớn, trẻ con đều biết ngắm đứng, đọc đoạn, dâng hạt. Lại ra miền ngoài của Cổ Ra, Bùi Chu, Phú Nhai, Thành Nam, Hải Phòng, cửa võng quan họ Bắc Ninh. Hay dừng chân ở quê lúa quê chèo Thái Bình thì ngôn ngữ đã phơi mở, à ơi như điệu hát đưa tình của ruộng rẫy, của con cò bay lả bay la, bay ra cánh đồng. Vừa kéo sợi, quay tơ, vừa ngâm nga kinh kệ. Bằng cách nào đấy, trong chừng mực phải phép, khi nói ra, khi ngâm nga chữ nghĩa của Kinh Kệ cũng là một cách thể hiện thói tục, nếp sống văn hoá, làng nghề của từng vùng miền, giãi bày, hé lộ ra cho người nghe biết và hiểu mình.

3.
Những quyển sách này dày cộm, cầm trĩu cả tay thằng bé. Ấy thế mà đi đâu cũng tha đi. Cứ tụng ra rả, tối ngày, sáng đêm. Thế là nhập tâm, thuộc lòng thôi. Người nhà quê bên đạo chúng tôi ngày xưa hay nhiễm cái thói quen ấy, chết không bỏ được. Nói dối phải tội, nếu có ai bảo gấp sách, khoanh tay, tôi có thể nhắm mắt, đọc một mạch từ trang đầu đến trang cuối, dễ như lấy đồ trong túi. Chuyện có thật một trăm phần trăm đấy. Chúng tôi bảo nhau thuộc nằm lòng các kinh, như thuộc ca dao, tục ngữ, phong dao ở nơi cửa miệng. Cha truyền con nối. Ông bà, cha mẹ dạy bảo bao nhiêu, được bấy nhiêu, nó ngấm cả vào trí khôn. Đến nỗi, nhất cử nhất động, cứ đọc kinh ra vanh vách. Miệng đọc, lòng suy. Nó ám vào người. Gọi ca dao là kinh và kinh là ca dao, cũng là gói ghém trong cái ý nghĩa thuần thành, nhà quê đơn giản ấy. Thế mới biết tổ tiên, cha ông mình ngày trước tài hoa thật, giỏi giang, chữ nghĩa, thi phú văn chương cũng chẳng kém cạnh với ai. Nhiều khi, nghĩ tẩn mẩn hạn hẹp, tôi cứ lấy làm ra vẻ ta đây con nhà có đạo, hơn hẳn người bên lương, đi chùa đi chiền đấy, mà kinh kệ nhà Phật cứ ê a, ậm ừ, chả ra cái thể thống gì. Xin kể vài ba thí dụ, trong muôn một, để làm bằng. Chẳng hạn, Vãn Dâng Hoa Đức Mẹ Mân Côi. Cả nhà thờ đều tăm tắp, như đếm,như một dàn đồng ca. Kinh này diễn ra rỉ rả, phơi phới suốt tháng 5 - Tháng Hoa Đức Bà, Tháng Đức Bà - là bắt nguồn từ bản trường caNghinh Hoa Tụng Kỳ Chương”, gồm 112 câu thơ lục bát. Đang xuôi chèo mát mái với nhịp tang bồng sáu tám,đôi khi lại chen vào mấy câu thất ngôn, khúc mắc, nhưng là những bản lề, chuyển mạch rất khéo là. Được biết, cũng chỉ là một Thánh Vịnh nguyên văn bằng tiếngnhà thầy”, tức là tiếng La Tinh. Vậy mà vào tay người Việt mình, nó đã hoá thân thành một bản” trường thiên” có đủ cả bố cục, chương hồi. Xướng đọc lên, ngâm nga lên, diễn xuất ra, có đủ cả cung giọng, hứng cảm của một bài hoan ca của đội con hoa dâng tiến trước toà. Không thiếu một sắc màu, một loại hoa nào. Bảo đấy là nhạc cảnh, là kịch bản cũng không sai. Muôn hồng nghìn tía. Này mai, sen, quỳ, lê. Này cúc, mẫu đơn. Lục bát và thất ngôn phức hợp, đan xen lẫn nhau. Rặt thấy thể loại thơ ấy trong kinh sách, thi ca nhà đạo. Tuyệt nhiên, cấm thấy ở ngoài đời. Kể cả những tác phẩm thuộc thể loại chương khúc, ca vãn rất thịnh mãn: Ngoạ Long Cương, Tư Dung Vãn của Đào Duy Từ và Ai Tư Vãn của Ngọc Hân . Khéo thật là khéo. Vậy thì phải nói là độc quyền sáng tạo chứ còn gì? Tôi trộm nghĩ, nhà đạo mình đã chọn đi một con đường riêng, khuất nẻo mà thầm lặng, kham nhẫn. Chẳng bon chen, kèn cựa hơn thua với ai. Chỉ để làm sáng danh Chúa mà thôi. Cứ mở và đọc hàng chục, hàng trăm tác phẩm được viết theo thể Ca Vãn ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh, loạn lạc thời Trịnh Nguyễn phân tranh và những năm bách hại, cấm cách thì đủ rõ.Dễ đến vài trăm bộ sách Ca Vãn đạo trong kho tàng văn học truyền khẩu, vừa diễn ca, vừa tuồng tích. Mới hay, người xưa theo đạo, giữ đạo và sống đạo, qua nhiều bể dâu, hệ luỵ, một phần nhờ vào những ký ức truyền khẩu, lưu hành nội bộ ấy. Là Kinh Sách và Ca Vãn. Một kho tàng bất tận.

 

Xin mời đọc một trích đoạn, sau đây, bất chợt trong toàn văn 112 câu thơ lục bát bài của bản kinh trường thiên mang tênNghinh Hoa Tụng Kỳ Chương” của Cụ Cử Thiện ở cuối thế kỷ XIX.(1) Cụ đồ nho văn hay chữ tốt, về quê ở ẩn mà làm thơ thì phải biết. Đây, ta nghe thử vài câu, nhé.
 

Đền vàng quỳ trước dâng hoa
Trông lên tháp bảo thấy toà Ba Ngôi
Mười hai nhân đức gương soi
Kính dâng Đức Mẹ đời đời ngửa trông
Và” Đức Bà thờ Chúa một bề
Hoa quỳ chăm chắm hướng về thái dương
Tội nguyên không nhiễm khác thường
Hoa sen trên nước chẳng vương bùn lầm
Lòng đầy thánh sủng giáng lâm
Hoa lê tuyết đượm mùi thơm khác vời
Tuổi cao phúc đức càng đầy
Lạ lùng hoa cúc nở ngày vãn thâu
Toà cao thần thánh kính chầu
Hoa mai đỉnh núi nở đầu trăm hoa

 

  1. Kinh là Thơ, ta đọc thấy còn xuất hiện đều khắp ở Toàn Niên Kinh Nguyện, ở phép lần hạt Văn Côi Đức Bà. Gọi nôm na là “Phép Ngắm Rosa”. Bản Kinh này được đặt tên làVăn Côi Thánh Nguyệt Tán Tụng Thi Ca”, cũng là tác phẩm của Cụ Cử Thiện, gồm 252 câu thơ lục bát và thất ngôn. Đại ý nói về mầu nhiệm năm sự Thương: Đức Chúa Giêsu lo buồn đồ mồ hôi máu mình trong vườn Giệt:
     

Sự Vui qua, sự sầu lại kế
Lòng Đức Bà như bể dạt dào
Khi thấy Con chịu khốn khó bao
Thì Người cũng phải đau đớn hết
Chúa vào cầu nguyện trong Vườn Giệt
Thấy tội loài người, lòng thảm thiết
Máu trộn mồ hôi đổ toá ra
Phó mình vào nộp toà phán xét
Lạy ơn Đức Mẹ nhân thay
Xin vì sự nhiệm mầu này thẩm thương
Cho con được sức vững vàng
Chịu nhiều sự khó Chúa thường định cho”

 

(Văn Côi Thánh Nguyệt Tán Tụng Thi Ca, câu 97-108).

Đến Thánh Mẫu Thi Kinh thì không còn nói xa nói gần gì nữa.
Toàn là thơ và thơ. Đây đích thị là một tác phẩm trường thiêndiễn ca Kinh Cầu Đức Bà”. Thơ lục bát ở đây nghe đậm chất làng mạc, đồng bái, ao chuôm của Cổ Ra, Phú Nhai, Kẻ Sặt, Tiền Hải, Thuỵ Anh, Cao Mộc, Thái Bình. Nó thong dong, nhàn hạ. Nó đủng đỉnh tay chèo tay lái, y như kẻ nhàn du, vãn cảnh thiên nhiên. Dòng chảy lục bát của tác giả khiến chúng ta liên tưởng đến một trường hợp hoàn toàn sáng tạo, chuyên chở tâm tình Việt Nam:

 

Ba Ngôi cùng một Chúa Trời
Xin thương phù hộ chúng tôi mọi đàng
Maria Thánh Nữ Vương
Trước toà, xin rủ lòng thương thay lời…”
“Đức Bà như thể hoa thơm
Lạ lùng mọi vẻ dịu hơn mọi mùi
Đức Bà như thể lâu đài
Vua Đa vít thuở trị đời lập ra
Đức Bà như thể tháp ngà
Rất là châu báu, rất là cao sang
Đức Bà như thể đền vàng
Vững bền chói lọi, vẻ vang mọi bề

 

-“Con trông Mẹ có phép nhiều
Muôn vàn thần thánh cũng đều ngửa trông
Chúng con còn chốn long đong
Như người vượt biển mênh mông giữa vời
Mẹ như sao ngự giữa giời
Chính bên phương Bắc, có ngôi sao chầu.”


5.
Chẳng hiểu sao. Cứ mỗi lần khi nghe, khi xướng, đọc hoặc ngẫm ngợi những ngôn từ trong kinh sách, hoặc mỗi khi đắm mình vào khói hương nghi lễ tế tự của mỗi tín ngưỡng, mỗi tôn giáo nơi cung thánh, nhà thờ và đền chùa là y như tôi có cảm giác đang thả hồn mình trôi đi miệt mài đến vô thức trong dòng chảy của thi ca. Kinh và Thơ. Thơ và Kinh. Không còn biên cương nào cả. Chúng lẫn vào nhau. Chúng quyện lấy nhau. Sôi tràn. Khấp khởi. Bồi hồi. Tê dại. Tôi như kẻ xuất thế, nhập đồng, mộng du. Bằng đôi cánh bay bồng tuyệt vời thăng hoa của từng câu chữ, từng âm sắc, từng thanh điệu, từng tiết nhịp, từng hình tượng và từng ý tứ ẩn dụ. Thơ và Kinh dìu dẫn tôi gặp gỡ vô biên, như được khải thị, nhập thần. Để rồi, Kinh và Thơ ấy lại đưa tôi về trần gian, với hệ luỵ, vô thường, mong manh, còn mất, hư huyền.Ta bỗng hiểu ra thế nào là cảm xúc ngất ngây cái giây phút thầy trò Đường Tăng thấy hoa ưu đàm phơi mở trên hành trình sang Tây Trúc thỉnh Kinh. Đấy hẳn cũng là lúc nhà thơ nòi tình lãng mạn Chu Mạnh Trinh (1862-1905) lạc vào thế giới bến giác bờ mê của cảnh chùa Hương Sơn:

 

Xao xác rừng mai, chim cúng trái
Lửng lơ khe yến, cá nghe kinh
Thoảng bên tai, một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng

 

(Chu Mạnh Trinh. Hương Sơn Phong Cảnh)
 

Hình như phải có ngần ấy thuộc tính, phải hội đủ bằng ấy thứ biểu tượng, bằng ấy cách diễn cảm của thi ca thì tín đồ, chúng sinh mới thoát xác để cảm nghiệm được thế giới uyên áo, thần thiêng của Kinh Thánh Công giáo, của Tam Tạng Phật giáo, của Coran Hồi giáo hoặc của Mật Tông trên ngọn đỉnh trời Hy Mã. Rimbaud (1854-1891) bảo, thi sĩ là kẻ - qua ngôn ngữ - nghe thấy thứ âm thanh mà tai người không nghe được; hắn trông rất rõ cái mà mắt phàm của ta không nom thấy. Hắn chính làtên ăn cắp lửa - voleur de feu” trong tay thần linh để thắp sáng, soi đường cho thiên hạ.

 

Với Kinh Thánh, không nghi ngờ gì nữa, là mộtbản trường ca, một thi thiên bất tuyệt” đẫm chất thơ. Có ai kia đã dám quả quyết, người không đọc, không mê Kinh Thánh thì không làm thơ được và chưa biết thế nào là cầu nguyện. Nơi ấy là miếu nguyệt, vườn sương, khi hoa nở, lúc trăng lên. Bồ câu bé nhỏ của ta ơi,miệng môi em thơm tho nồng nàn sữa và mật ong khi hát khúc Diễm Tình Ca bên kia bờ Cựu Ước. Nơi ấy, vườn xum xuê rợp bóng hào quang Thánh Kinh. Tiến sĩ Augustino (354-430), vị thánh của đầu kỷ nguyên Kyto giáo đã dấn bước thật sâu vào thăm thẳm nội tâm con người. Bằng kiệt tác Confessions - Tự Thuật (397), qua Grande Profundus Homo, thánh nhân đã mở toang cánh cửa nội tâm để nhìn thấu suốt bên kia những biến động của bản ngã người. Bao thế hệ tài năng, sau đấy, đã nương theo lộ trình ấy: Từ Pétrarque với De Vita Solitaria đến J.J. Rousseau, A. Musset, A. Vigny, V. Hugo, L. Tolstoi…
 

Là thi sĩ, nói như người La Mã làNascitur Poeta”, nhưng “Fit orator” thi giả tự nhiên sinh, văn giả tập nhi thành. Đến nay, đã cuối vòng đời - giữa lô xô những nhiễu nhương, phồn tạp - tôi vẫn thấy trong tận đáy lòng mình vang âm cái chùm cảm giác mê mẩn, phiêu linh của câu kinh câu hạt thuở nào. Bởikinh hạt toàn là thơ”, mặc ai muốn đọc, xướng, ngâm hay hát. Mỗi cách thể hiện của từng mùa, của từng vùng miền về cung giọng, tiết tấu và diễn đạt khác nhau. Thế mới hiểu vì sao, nhà thờ, chùa chiền cứ vang rền nền nảy, cứ nghi ngút khói hương, cứ ngây ngất chói chan hoa đèn. Và như thế mới hiểu vì sao, đến tuổi xế chiều, bá tánh thập phương và con chiên bổn đạo, bỗng đâm ra quyến luyến nhà thờ, cảnh chùa, đền đài, miếu mạo nhiều hơn, sâu đậm hơn lúc còn trẻ. Khi sống đã vậy. Huống chi lúc nhắm mắt xuôi tay. Thậm chí, chỉ còn là nắm tro cốt phù du, cũng ân cần dặn dò con cháu, trăn trối xin gửi vào nhà chờ Phục Sinh, cửa Phật để được nghe tiếng kinh tiếng kệ. “Sống Tết, chết giỗ”; “Sống dầu đèn, chết kèn trống”.

Hai khái niệm độc lập. Hai cõi rất thơm tho và thiêng thánh. Ở những cảnh vực không có nơi, có chốn cụ thể vật chất. Hình như chẳng có liên hệ, gần gũi, dính dấp, ràng buộc gì nhau. Đấy là chuyện nói theo sách vở, lý thuyết. Trong thực tế và lịch sử, lịch sử có chứng cứ rõ ràng, suốt từ khi đạo Chúa được gieo vãi trên mảnh đất này từ 1553. Ngay khi mở miệng đọc những câu kinh, lời nguyện cầu còn thô mộc, khó nghe, khó hiểu nhất của chữ Quốc Ngữ mới hình thành
(1651) ở Phép Giảng Tám Ngày của A. De Rhodes; ở Thiên Chủ Khải Mông của H. Majorica; ở Tại Thiên Kinh (Kinh Lạy Cha); ở Cung Hỷ Maria (Kinh Kính Mừng); ở những Kinh nguyện nửa Hán, nửa Nôm và nửa phương Tây sau này thời thầy cả Philiphee Bỉnh, Pigeau de Béhaine…. Có thể đã nhận ra cái nguyên lý cốt lõi: Kinh và Thơ nương vào nhau, lồng ghép với nhau rất chặt chẽ. Thậm chí, khó có thể tách rời. Ngay từ bản chất của việc đọc kinh, nếu chỉ thuần là chuỗi chữ chồng xếp, nối tiếp vào nhau, mà không có chất dính là vần điệu nhịp nhàng của thi ca, là bổng trầm của bằng trắc thì chỉ làđọc suông recto tono” chẳng có gì hứng thú, thâm trầm. Kinh là thơ và thơ là kinh. Nghĩa là cái nọ chạm vào, thu hút cái kia. Khi đọc kinh, người ta ngâm nga theo nhịp điệu trầm bổng, thưa mau, nhanh chậm của thơ. Thơ quy định lên xuống, thể điệu, niêm luật bằng trắc của thơ. Và xướng kinh, người ta đã ít nhiều luyến láy, ngẫm ngợi dài vắn theo cung giọng nhịp nhàng của một câu hay một thể loại thơ. Nói tóm lại, có một thực tế: kinh sách lễ nhạc của ta đã được biên tập theo một lề lối rất giáo khoa của trường lớp hẳn hoi, nghĩa là có phương pháp, có cú pháp, có niêm luật của thi ca: từ tứ tự (tế, cáo, chiều, biểu) đến ngũ ngôn cổ phong; từ lục bát truyền thống đến lục ngôn phức hợp; từ song thất lục bát đến thất ngôn; từ văn khấn đến phú, văn tế, hát nói, trường đoản cú và trường ca…

 

Xin mượn nhận định sau đây của Linh mục Leopold Michel Cadiere (1869-1955)(2), một nhà Việt Nam học để đúc kết:Việt Nam là một dân tộc mà ở tất cả các tầng bậc xã hội, tình cảm tôn giáo thể hiện một cách mạnh mẽ, như chế ngự trọn vẹn đời sống. Nó bao trùm lên tất cả sinh hoạt hằng ngày.Tôn giáo chiếm hữu lấy họ ngay từ khi mở mắt chào đời, dẫn dắt họ đi suốt đường đời cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay… Dân tộc này một dân tộc hết sức sùng đạo… Người ta diễn cảm lời cầu kinh của mình thành những ca vãn, có kèm theo âm nhạc và nhảy múa.

(Triết Lý Dân Gian. Vũ Trụ Luận. Tạp Chí Anthropos, 1907-1908)(2)

6.
Theo tìm hiểu, nghiên cứu và trải nghiệm của riêng tôi thì toàn bộ kinh sách lễ nhạc (KSLN) Công giáo Việt Nam, từ khởi thuỷ (1553) đến nay - trải qua H. Majorica (1591-1656), A.de Rhodes (1593-1660), Philiphe Bỉnh (1759-1833) và kinh sách từ sau các Công đồng đều có những đặc tính chung: chuyển dịch, mô phỏng hoặc được biên tập từ nguồn ngoại văn: La Tinh, Bồ, Pháp, Tây Ban Nha, Italia sang Hán, Nôm, rồi Quốc ngữ và dễ đọc, dễ thuộc như thơ. Mãi tới 1924, 10 linh mục đại diện toàn cõi Đông Dương: Việt Nam, Thái Lan, Penang và Cam bốt nhóm họp tại Toà Khâm sứ Huế đểcùng nhau sửa kinh hôm mai cho trong ngoài nhứt thể(3). Gọi đấy là Hội Đồng Kinh đầu tiên, hiểu như là Uỷ Ban Phụng Tự ngày nay. Từ đấy, các kinh tập hợp lại, in thành sách kinh của riêng mỗi địa phận hoặc sách kinh chung của các địa phận: Thánh Giáo Kinh Nguyện của Phát Diệm, Hà Nội, Thanh Hoá, Hưng Hoá; Mục Lục, Mục Lục Nhựt Khoá của Vinh, Nam Kỳ, Trung Kỳ và của Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Thái Bình là sách Toàn Niên Kinh Nguyện.

Đọc và nghe hầu hết các kinh của các giáo phận, ta thấy chữ nghĩa, cung điệu bổng trầm du dương, đối đăng, có vần có điệu có khác nhau đôi chút, nhưng về cơ bản, vẫn là thơ, có chất thơ, là những câu thơ, áng thơ. Tôi đã đọc thấy thơ bàng bạc trong các câu xướng đáp đầu và cuối mỗi khi đọc kinh, ngay trong từng câu chữ của ngôn ngữ kinh nguyện thường nhật. Trước hết là trường hợp của các Kinh chiều hôm ban sáng, trong các sách kinh thường là giống nhau.

 

- khi làm dấu thánh giá:
lạy Chúa chúng con, vì dấu thánh giá
xin chữa chúng con cho khỏi kẻ thù
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần

- Kinh nguyện Chúa Thánh Thần:
Chúng tôi lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần
Thiêng liêng, sáng láng vô cùng
Chúng tôi xin Đức Chúa Thánh Thần
Xuống đầy lòng chúng tôi là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời
Và đốt lửa kính mến trong lòng chúng tôi
”.
- Kinh Truyền Tin:
Đức Chúa Trời sai Thánh Thiên Thần
Truyền Tin cho Rất thánh Đức Bà M
aria
Cho chúng con ngày sau khi sống lại
Được lên nơi vinh hiển, vì công nghiệp Chúa…

- Kinh Nữ Vương Thiên Đàng:
Lạy Nữ Vương Thiên Đàng hãy vui mừng
Vì Đấng Mẹ đã cưu mang trong lòng…

-
Kinh Sấp mình:
Con sấp mình xuống trước mặt Chúa con
Con tin thật Chúa ở khắp mọi nơi
Thông biết mọi sự hằng xem thấy con…

- Kinh Sáng Soi:
Cho chúng con được biết việc phải làm…
Từ khởi sự cho đến hoàn thành…

- Kinh Tin, Cậy, Mến:
“Tôi tin thật có một Đức Chúa Trời”
“Lạy Chúa tôi, tôi trông cậy vững vàng”
“Tôi kính mến Chúa hết lòng hết sức
…”
- Kinh Thờ Lạy:
Lạy Chúa con, con là vật phàm hèn
Cùng là không trước mặt Chúa
Con hết lòng thờ lạy và nhận thật
Chúa là đầu cội rễ mọi sự
.”
- Kinh Ăn Năn Tội.
Chúa là đấng trọn tốt trọn lành vô cùng
Chúa đã dựng nên con và cho Con Chúa ra đời
Chịu nạn, chịu chết vì con
Thì con lo buồn đau đớn cùng chê ghét…
Con dốc lòng chừa cải và nhờ ơn Chúa
Thì con sẽ lánh xa dịp tội
.”
- Kinh Cáo Mình:
Tôi cáo mình cùng Đức Chúa Trời
Là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất
Rất thánh Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh…
Lòng động, lòng lo, miệng nói, mình làm
Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng

- Các Kinh Nguyện trong thánh lễ:
Vinh danh Chúa trên các tầng trời
Và bình an dưới thế cho người thiện tâm
“Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng
Tôi tinh kính Đức Chúa Giêsu là Con Một Đức Chúa Cha
Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai
Sinh bởi Bà Maria đồng trinh
Chịu nạn thời quan Phong xi ô Phi la tô
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần
Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này

-“Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành.
Và Người sẽ lại đến trong vinh quang”
“ Bình an của Chúa hằng ở cùng anh em.
Chiên Thiên Chúa, đấng xoá tội trần gian
Xin ban bình an cho chúng co
n”
-“Con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con
Nhưng Chúa phán một lời thì con lành mạnh

- Trong các Kinh chiều hôm ban sáng:
-“Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn
Thứ nhất, kính mến Đức Chúa Trời trên hết mọi sự
Sau lại yêu người như mình ta vậy
”.
-“Chớ làm việc xác ngày Chủ nhật
Xưng tội trong một năm ít là một lần
Chịu mình thánh Đức Chúa Giêsu trong mùa Phục Sinh

- “Thương người có mười bốn mối
Thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ hai cho kẻ khát uống

- “Thương linh hồn bảy mối:
Thứ nhất, lấy lời lành mà khuyên người
Thứ hai, mở dậy kẻ mê muội
Thứ ba, yên ủi kẻ âu lo…

- Kinh Nghĩa Đức Tin: đọc mỗi sáng Chủ nhật:
Ngày Chủ nhật hôm nay
Chúng con họp nhau đây
Kính lạy thờ phượng Chúa …
Nên chúng con cả lòng tin vững vàng
Mọi điều đạo thánh Chúa truyền dạy
Những ơn cần kíp cho được rỗi linh hồn
Ai chẳng thông công cùng Hội Thánh ấy
Thì chẳng được rỗi linh hồn
Mà linh hồn là giống thiêng liêng chẳng hề chết được
Kẻ lành lên thiên đàng hưởng phúc đời đời
Kẻ dữ sa hoả ngục chịu phạt vô cùng…
Phải sợ hãi và trốn lánh các tội lỗi
Hằng phải ân cần lo lắng và năng chịu các phép bí tích…
Được hưởng phucx thanh nhàn đời đời kiếp kiếp. Ame
n”
- Kinh Lạy Cha:
lạy Cha chúng tôi ở trên trời
Chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng
Vâng ý Cha dưới đất bằng trên trời
Cho chúng tôi rày hàng ngày dùng đủ
Lại chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ
Bèn chữa chúng tôi cho khỏi sự dữ”

- Kinh Kính Mừng:
Kính mừng Maria đầy ơn phúc…
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ
Và Giêsu Con lòng Bà gồm phúc lạ

- Kinh Kính mừng Vàng: được Đức Giám mục Dom. Hồ Ngọc Cẩn chuyển dịch từ Kinh Kính Mừng của thánh nữ Gertrude:
Kính mừng Maria
Mẹ như hoa huệ thanh bạch tốt tươi
Là hoa huệ của Chúa Ba Ngôi hằng ngời sáng
Thánh Maria Mẹ như hoa hồng chói lói
Nở trong vườn diệu quang trên trời
Ôi bởi hoa này mà Vua Thiên quốc khứng sinh ra
Bởi dòng sữa đồng trinh Mẹ
Người đã vui lòng bú mớm
Xin Mẹ cứu giúp con là kẻ tội lỗi
Khi nay và trong giờ lâm tử, amen.

- Kinh lạy Thánh Mẫu:
Lạy Thánh Mẫu Maria, Mẹ rất nhân từ
Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe
Xin chữa chúng tôi khỏi tay kẻ dữ
Ghé mắt trông xem trong thì lâm tử.

-Kinh Lạy Nữ Vương:

Thân lạy Mẹ, chúng tôi con cháu Eva
Ở chốn khách đày, kêu đến cùng Bà
Ở nơi khóc lóc than thở kêu xin Bà thương
Hỡi ôi, Bà là Chúa bầu chúng tôi
Xin ghé mắt thương xem chúng tôi
Ôi khoan thay, dịu thay, Thánh Maria
Trọn đời đồng trinh, amen.”

- Kinh Hãy Nhớ:
Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ rất nhân từ
Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào
Xin Đức Mẹ đoái đến con là kẻ tội lỗi
Một rủ lòng thương và nhậm lời con cùng
.”
- Kinh Phó Dâng:
Con xin phó dâng linh hồn và xác con
Chúa đã phù hộ con ban ngày thì xin gìn giữ ban đêm.
Kẻo sa phạm tội gì mất lòng Chúa

- Kinh Cám ơn:
“Tôi cám ơn ĐCT là Chúa lòng lành vô cùng
Chẳng bỏ tôi, chẳng để tôi không đời đời
Mà lại sinh ra tôi, cho tôi được làm người
Hằng gìn giữ tôi, hằng che chở tôi
Lại cho Ngôi Hai xuống thế làm người
Chuộc tội chịu chết trên cây thánh giá
Lại cho tôi được đạo thánh Đức Chúa Trời
Cùng chịu nhiều ơn nhiều phép
Kẻo phải chết tươi ăn năn tội chẳng kịp…
Chớ gì sống chết, tôi được giữ một lòng
Kính mến Chúa tôi trên hết mọi sự…

- Kinh Vực sâu:
Tôi ở dưới vực sâu kêu lên Chúa tôi
Hãy lắng nghe tiếng tôi cầu xin
Nếu Chúa chấp tội, nào ai rỗi được…
Đêm ngày hãy trông cậy Người cho liên
Vì Người rất nhân lành hay thương vô cùng
Tha hết mọi tội lỗi kẻ làm dân Người thay thảy
…”
Ở Thánh Giáo Kinh Nguyện, ngôn ngữ Kinh sáng láng và đằng tả, minh triết hơn.
- Kinh Kính Thánh Giá:
Lạy dấu thánh giá +
Tôi kính thánh giá+
Cây thánh giá là gươm là giáo
Cây thánh giá là tàu vượt sang khỏi biển
Cây thánh giá là chìa khoá mở cửa thiên đàng

- Kinh cầu bằng an:
Xin ban bằng yên trong đời chúng tôi
Chẳng ai cứu giúp, bênh vực chúng tôi
Cho đền đài Chúa tôi được dư của lành…
Chúng tôi sẽ hưởng bát tiết yên hàn
Lòng chúng tôi mới dễ chiều về đàng lành
Mà giữ cho nên các điều Chúa tôi răn dạ
y”
- Kinh bảo đàng:
Lạy Đức Chúa Giêsu là Chúa thiên đàng
Trên chốn mọi sự vui vẻ đời đời
Linh hồn tiên nhân là gương thiên hạ
Kẻ đi trước bảo kẻ còn ở lại
Trái xanh, trái chín cũng một chúa cây
Chớ yêu xác là giống hèn
Mà bỏ linh hồn là của trọng
Phải tìm nơi nào lành mà ở được đời đời
.”
- Kinh Cầu Hồn:
Lạy Chúa tôi ơi
Chúa đã phán lời:
Tao là Chúa cả
Mọi sự, mọi loài
Kẻ sống ở đời
Lại cùng kẻ chết
Chúng tôi đã biết
Cha mẹ chúng tôi
Với lại những người
Họ hàng con cháu
Ông bà ruột máu
Tình nghĩa vợ con
Cha mẹ phần hồn
Ân tình phần xác
Rầy đang khoải khắc
Trong lửa công bằng
Đêm ngày trông mong…

- Kinh Lạy Chúa Ngôi Hai:
Lạy Chúa Ngôi Hai
Chúa đã ra đời
Lập công chuộc tội
Chúa đã thương gọi
Tôi được đạo lành
Chúa lại thương tình
Xác thịt hèn hạ
Hằng ngày sa ngã
Phạm tội như mưa
Chúa xuống ga- sa
Hộ phù sau trước
Để cho tôi được
Giữ đạo hẳn hoi
Khốn nạn thân tôi
Vì lòng bội bạc…

- Kinh Nữ Vương gia đình:
Lạy Nữ Vương gia đình
Mẹ ở đây với chúng con
Vui buồn, sướng khổ Mẹ con cùng nhau chia sẻ…
Xa Mẹ chúng con biết cậy trông ai
Đời chúng con gian nan khổ sở lắm
Gia đình chúng con long đong tối ngày
Nhưng có Mẹ ở bên với chúng con
Chúng con quên hết ưu phiền
Vui sống qua kiếp lưu đày
Mong ngày sau vui sướng cùng Mẹ trên thiên đàng.
Chúng con hết dạ trung thành dâng cho Mẹ
…”
-Kinh Trông cậy:
Chúng tôi trông cậy Rất Thánh Đức Mẹ Chúa Trời
Xin chớ chê, chớ bỏ chúng tôi
Trong cơn gian nan, khốn khó…

- Kinh Vực Sâu
Lạy Chúa, tôi ở dưới vực sâu kêu lên Chúa tôi
Hãy lắng nghe tiếng tôi cầu xin
Nếu Chúa chấp tội, nào ai rỗi được”

- Kinh Thánh Mẫu La Vang:
Cúi xin xuống phước hải hà
Đoái thương con cái thiết tha van nài”
Mẹ là Thánh Mẫu Chúa Trời
Cũng là Thánh Mẫu loài người chúng con
…”

Trên đây là những kinh nguyện thường nhật, trong Thánh Giáo Kinh Nguyện và Toàn Niên Kinh Nguyện. Chúng tôi muốn giới thiệu với độc giả sách Mục Lục, Nhựt Khoá. Theo nghiên cứu của học giả Hoàng Xuân Việt
(1928-2014), Mục Lục là quyển sách kinh được nhà in Tân Định tái bản năm 1914 tại Sài gòn. Bản in đầu tiên ở Bangkok, Thái Lan năm 1868, gọi là Mục Lục Xiêm. Sách Kinh này có nhiều chương, đoạn, trang mục thuần là văn chương thi phú, vè vãn (Hoàng Xuân Việt. Một Bức Tâm Thư Thần Học, 2009).(4) Sách Mục Lục và Nhựt Khoá, ngôn ngữ kinh là ngôn ngữ tự sự của người Trung và Nam bộ. Rất giản dị, cụ thể với những hình tượng ví von của người bình dân.

 

Ở đây, là lời kinh kể lể rất khúc chiết, rõ ràng. Kinh và thơ như một bản tế cáo, chiếu biểu, tấu sớ.
- Kinh Rất Thánh Trái Tim: Gọi sách Kinh Mục Lục, là một Tuyển Tập Thi Ca vì có các chương: Ca Hát Mùa Giáng Sinh, Mùa Phục Sinh. Các nhà giáo phụ Nam Kỳ Địa Phận vô cùng xởi lởi phóng bút cả thơ lẫn nhạc. Đã có một thời vang bóng của nhạc đoàn Phan Văn Minh, với Phao lô Quy, Phao lô Đạt. Ca Mừng Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu và Rất Thánh Đức Bà Maria năm 1924 của nhà in Tân Định là tác phẩm mượn lời Kinh từ trong sách Mục Lục. Ta đọc và nghe một ca khúc ấy:

 

Nửa đêm mầng Chúa ra đời
Bức khăn sạch vấn để nơi hang lừa
Cỏ rơm trải lót bơ thờ
Mượn ấm bò lừa quỳ thở dưng hơi
Kiểng tinh soi sáng thâu đêm
Chói lói giữa trời nhỏ xuống Bê Linh
Thiên thần chín đấng chầu quanh
Tấu nhạc rập ràng mừng hát xướng ca
…”
- Cứu Thế toà trung:
Ớ máng cỏ
Quới hơn bệ ngọc
Báu hơn lầu vàng
Vì Chúa Trời sanh xuống hôm nay
Ớ máng cỏ
Hơn các tầng trời
Rộng cao mấy trượng…

- Ớ Chúa Hài Đồng:
Ớ Chúa Hài Đồng, giáng sinh Cứu thế
Nửa đêm giờ tý, Chúa mới hiện điềm
Mẹ trải khăn dài, vấn Con bồng lấy
Đức Mẹ khi ấy thảm thiết thương thay

- Hỡi mục đồng:
Hỡi mục đồng, hỡi mục đồng
Nghe ta bảo tin lành chớ sợ
Cho bay xem sự lạ đã trông
Qua hang đá, ngả Bê Lem
…”

Ngoài ra, sách Mục Lục đã dành ra các Chương riêng về các chủ đề khác nhau. Dĩ nhiên, chương nào cũng là ca vãn và thi phú.
- Thẩm Phán Kinh
(trang 250-253).
- Thánh Giá Kinh
(254-256).
- Thánh Mẫu Thương Khó Kinh
(257-260).
- Đệ nhất thiên về mùa Giáng Sinh:
- Cứu Thế Thánh Đản
(325-327).
-Cứu Thế Toà Trung
(328-329).
-Ca Hát mùa Chay
(357-390).
- Ca Hát mùa Phục Sinh
(396-440).
-Ca Hát Mình Thánh
(440-442).
- Ca Hát về Đức Bà
(445-474).
- Thánh Mẫu thống khổ kinh.
- Ca Hát Lễ Đèn.
- Ca Hát về Chư Thánh- Các linh hồn
(474-496).
- Ca Hát Lễ Tro.
Ớ các giáo nhơn dân trong bầu thế giái
Hỡi người giáo hữu ở khắp bốn phương
Hãy đem lòng tôn kính mến thương
Mà thờ phượng Trái Tim quới trọng
Hãy cầm trí suy nghĩ, ngưỡng vọng…”
Trái Tim này rất trọng hiển vang
Là toà vàng Chúa ngự cao sang
Là chốn thánh dân nguy an ẩn….

- Thánh giá kinh:
Ớ ngọn cờ rực rỡ chói loà
Vua trời đất kéo lên làm lịnh
Là ý nhiệm thẳm sâu cao trọng
Thánh giá bày tỏ trước mặt ta
Đấng tạo sanh liều mình chịu nạn
Chết trên Thánh Giá rất thiết tha…


Đã có một thời chưa xa. Đến nhà thờ, ta được nghe một chuyển đổi giao mùa nào đấy giữa Tây và Đông, giữa Roma và Việt Nam rất đề huề, êm ái:

 

Các thầy đọc tiếng La Tinh
Các cô con gái thưa kinh dịu dàng

 

Khi nói đếncác cô con gái thưa kinh dịu dàng” ắt là đã nói đến thứ ngôn ngữ mẹ đẻ Việt Nam có vần điệu đấy. Cái tài hoa và khôn khéo của cha ông ta trong quá trình chuyển dịch - biên soạn kinh hạt thật đáng khâm phục, tâm phục. Có thần học. Có tín lý. Có triết học. Lại vận dụng được cả ngôn ngữ trên cơ sở văn chương, học thuật Hán Nôm và luật lệ thi phú nữa. Mùa nào, kinh nguyện và cung điệu ấy. Từtấu, sớ” đếnhát xướng, vãn ca, ngâm khúc, truyện kể tự thuật”. Thật đơn giản mà tài tình. Chỉ là “truyền khẩu” mà nhập tâm, nhớ mãi, thuộc lòng. Đọc kinh, nguyện ngắm là gì, nếu không phải là sống trọn vẹn tiếng nói có vần điệu, biền ngẫu, có đối đăng và cung giọng bồng trầm đầy diễn cảm của người Việt mình. Có kinh được chuyển dịch từ La Tinh, Bồ, Pháp, Tây Ban Nha, Italia. Có kinh được cảm nghiệm và sáng tác tại chỗ. Có kinh mang tính uyên bác, cung đình. Lại có kinh hệt như cách nói, cách ví von dân dã Việt Nam. Thành thử, đọc, nghe, xướng lên, chung hay riêng, kinh ngấm sâu vào lòng, vào trí, chỉ chờ dịp là bật mở, oà vỡ trong tầng bậc ký ức, trong tận cùng tiềm thức hoặc vô thức đã tích luỹ từ mấy trăm năm qua. Kỳ diệu thay, phải có phép mầu nào thì thứvăn nhà thờ, thơ nhà đạo” ấy mới sinh sôi nảy nở, mớichở được đạo” đến cho hàng triệu triệu người trên mảnh đất thân yêu này. Nó cũng giải thích tại sao người mình mến mộ và mau thuộc lòngtruyện thơ Nôm”, ưa xemtuồng chèo, cổ trang, ca kịch cải lương” hơn những loại hình kịch nói du nhập từ phương Tây. Vâng, đã có một thời, người ta ít nhiều đã yêu thích một kinh nguyện nào đấy, vì lời hay ý đẹp, vì vần điệu nhịp nhàng. Cũng có thể vì đang ở trong một khung cảnh, một kỷ niệm thánh thiêng mà phát sinh lòng cảm mến.
 

Chợt nhớ, mỗi lần lên rước lễ
Tôi bâng khuâng , một thoáng em nhìn
Trời ơi, đôi mắt buồn u ẩn
Hai trái tim cùng một đức tin

            ( Lời Tự Tình Của Bến Trần Gian).

 

Ngôn ngữ Việt, từ bản chất, đã hàm chứa cung bậc, âm nhạc. Nó mách bảo, mở lối cho người nói người nghe đi vào cái bậc tầng đa chiều, có dấu giọng bằng trắc bổng trầm, như là những nốt nhạc lên xuống, cao thấp. Tự nhiên mà như sẵn có một tổ chức, xếp đặt lớp lang, gãy gọn, xuôi chảy, nhịp nhàng. Hèn chi, ngay từ buổi đầu tiếp cận với người mình, các nhà truyền giáo Tây phương đã không giấu được cảm xúc - từ ngạc nhiên đến khâm phục- đã phải thốt lênnghe họ nói, tôi ngỡ chim hót líu lo. Không chỉ một mình A. De Rhodes. Trước và sau ông, đã có nhiều nhận định tương tự. Rằngngười nào có tài về âm nhạc, biết phân biệt âm sắc thì mới thấy học nổi tiếng Việt là dễ dàng. Dường như dân Việt bẩm sinh đã có một cơ thể rất hoàn thiện được điều chỉnh thật đúng là hoà hợp hoàn toàn với trí óc, buồng phổi. Phải nói, tự nhiên, người Việt đã là một nhạc sư. Họ có tài phát âm một cách nhẹ nhàng, chỉ hơi biến thanh một tí, đã ra một nghĩa khác, dường như người Việt nói là hát vậy”. Riêng A. De Rhodes lại phân tích rạch ròi, khi ông để ra cả một chương sách đề cao giá trị của tiếng Việt. Sáu thanh có thể đáp ứng 6 nốt nhạc của ta: Đồ, Re, Mi, Fa, Sol, La.
 

Cũng may, trời phú cho người mình cá tính ưa ca hát, ví von, ngâm vịnh. Và tiếng Việt của mình lại là một ngôn ngữ giàu âm nhạc, giàu hình tượng trong diễn đạt. Cho nên, có đọc lại Kinh Sách cũ, mới thấy việc biên soạn và tập tành của cha ông ta từ xa xưa - từ La Tinh, Hán, Nôm đến Quốc ngữ - đã khơi mạch, bắt nguồn từ vốn liếng đã chắt lọc kho tàng quý báu ấy. Từ đọc Kinh, xướng Kinh, nguyện Kinh đến vãn Kinh, hát Kinh.Từ “ cung Kinh đến cung Sách”. Từ” cung ngắm lễ, đọc Evan, đọc Sách Phần, than thánh giá, giúp bệnh nhân khi lâm mạnh” cho đến những “vè, vãn, ca, ngâm” có bài bản, chương khúc, vần điệu. Chứng cứ là “ năm 1622, bà chị của Chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã xin chịu phép rửa. Bà thường nghe những bài hát đạo và truyện các thánh, do một con hát ở Đàng Ngoài diễn”. Và ở phủ Chúa Trịnh, theo ghi nhận của giáo sĩ A. De Rhodes, “có bà Catarina, em gái của Chúa Trịnh đã đặt thành thơ vãn tất cả lịch sử dạo Công giáo… Chẳng những người có đạo, mà còn cả những người không có đạo cũng thích ngâm vịnh. Nhờ những thơ văn đó mà nhiều người đã trở lại đạo.”(5)
 

Tôi cảm tạ Chúa đã cho dân tộc Việt Nam tôi một gia tài vô cùng quý báu, là ngôn ngữ rất tuyệt vời, một thứ của báu mà Nguyễn Du (1765-1820) dệt nên 3254 câu thơ lục bát mượt mà châu ngọc là Truyện Kiều. Ngôn ngữ ấy đã là chỗ dựa vững chắc cho học giả Phạm Quỳnh (1892- 1945) quyết như một tiền đề:Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, nước ta còn.” Và thiên tài Phạm Duy (1921-2013) vào bài “Tình Ca” bất hủ, qua tiếng hát vượt thời gian của đệ nhất danh ca Thái Thanh (1934-2020):
 

Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi
Mẹ hiền ru những câu xa vời, à ơi
Tiếng ru muôn đời
Tiếng nước tôi
Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ôi…


 

Chú thích:
(1) Phê rô Phạm Trạch Thiện
(1818-1903) đỗ Á khoa Cử nhân khoa thi Tự Đức năm thứ 5, quê làng Cổ Ra. Tác giả của: Kinh Cao Sang diễn Nôm Kinh Cảm Tạ Niệm Từ nguyên văn chữ Hán của thầy giảng Phan chi cô Thành Phao (1640); Nghinh Hoa Tụng Kỳ Chương (Vãn Dâng Hoa); Văn Côi Thánh Nguyệt Tán Tụng Thi Ca (Phép Ngắm Rosa) và Thánh Mẫu Thi Kinh (Diễn ca Kinh Cầu Đức Bà).
(2) Linh mục L. Michel Cadi
ère (1869-1955), một nhà nghiên cứu có thế giá về văn hoá Việt Nam, một nhà Việt Nam học có uy tín.
(3) Hội Đồng Kinh của các nước Đông Dương họp tại Toà Khâm sứ Huế từ 28.4 đến 17.5.1924 với mục đích
cùng nhau sửa Kinh hôm mai cho trong ngoài nhứt thể”. Thành phần Hội Đồng gồm có: Thầy Giuse Maria Nguyễn Văn Thích đặc cách tham gia; Cha Chabanon (Cố chính địa phận Huế); Cha Molero (Dòng Đa Minh); Cha Hergott (Cao Miên); Cha Dalaine (Vinh); Cha Bourle t(Phát Diệm); Cha Lalane (Qui Nhơn); Cha Huy (Bùi Chu); Cha JB Tòng (Sài gòn); Cha Tri ( Hưng Hoá) và Cha Simon (Xiêm).
(Theo Nam Kỳ Địa Phận số 79, 1924).
(4) Học giả Hoàng Xuân Việt.
Tên thật là Nguyễn Tùng Nhân.
-Sinh:1928. Bến Tre. Mất 2014.
Theo đánh giá của học giả Đào Duy Anh
(1979) thì Hoàng Xuân Việt là một hiện tượng xuất chúng, một quái kiệt. Là một trong 4 học giả hàng đầu của Việt Nam: Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Duy Cần, Phạm Cao Tùng trong tủ sách Học Làm Người.
(5) Linh mục Nguyễn Hồng. Lịch Sử Truyền Giáo ở Việt Nam
Tập I, trang 118. Nxb Hiện Tại, Sài gòn, 1959.

Tác giả bài viết: Lê Đình Bảng

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây