MỘT ÁNG KINH VĂN TUYỆT BÚT,
KINH NGUYỆN GIỖ “PHỤC DĨ CHÍ TÔN”
●Francis Assisi Lê Đình Bảng
Hằng năm, Phụng vụ dành ra cả một tháng trời – tháng 11 Dương lịch – để kính nhớ Tổ tiên, để tưởng niệm, cầu nguyện cho những người thân thương đã qua đời. Nào kinh sách lễ nhạc, giỗ chạp khói hương. Nào cùng nhau đi viếng nhà thờ, ra đất thánh để sửa sang mộ chí… Rõ ràng là một mùa vụ công quả, báo hiếu, thật ấm áp nghĩa tình. Trong những dịp này, một trong những bản kinh văn được người người, nhà nhà, nơi nơi xướng đọc, ngâm ngợi rất nhịp nhàng và bi lụy là kinh nguyện giỗ cầu hồn “Cảm Tạ Niệm Từ” mà dân gian nhà đạo mình quen gọi bằng cái tên “Phục Dĩ Chí Tôn…” Phải chăng, áng kinh văn tuyệt tác bằng Hán văn này đã ra đời đồng thời với dòng văn học Hán Nôm của ta, ngay từ thế kỷ XVII? Có nhiều giả thuyết, nhưng lập luận của linh mục Philipphê Bỉnh là đáng tin cậy nhất.
Ở thời điểm những thập niên đầu tiên (1822-1824) của triều Nguyễn, linh mục Philipphê Bỉnh[1] đã cung cấp cho chúng ta một chứng từ lịch sử: “… mà kinh nguyện giỗ (Cảm Tạ Niệm Từ) thì Thầy ấy (Thầy Phanchicô) nguyên là Hòa thượng tu ở chùa thành Phao làm[2], thì đặt ra cung sớ, vì rằng Phục, Dĩ, Chí, Tôn, Chân, Chủ, Cửu Trùng[3]… Cũng theo sách đã dẫn, “Thầy Phanchicô cùng thầy cả Girolamo (Majorica)[4] mà bao nhiêu sách Người làm trong nước ta thì thầy ấy viết”. Những ghi nhận trên đây của linh mục Philipphê Bỉnh càng làm sáng tỏ thêm niềm xác tín của chúng ta. Rằng việc trước tác và ghi ký kinh nguyện nhà đạo bằng Hán Nôm của tập thể Girolamo Majorica – trong đó có thầy Phanchicô, một thành viên chủ lực – suốt 22 năm ròng rã (1634-1656), cùng với kinh sách quốc ngữ của giáo sĩ Đắc Lộ, đã thực sự là một bộ phận không nhỏ trong sự nghiệp văn học Công giáo Việt Nam ở thế kỷ XVII vậy. Thế nhưng, chẳng hiểu vì sao, đến nay, công trình đồ sộ trên vẫn chỉ ngủ yên ở dạng tư liệu, nằm trong các thư viện Công giáo ở phương Tây? Cả đến sách báo truy tìm, nghiên cứu văn học ở trong nước, cũng chưa hoặc không đá thảo gì đến chuyện này!
Để rộng đường dư luận và củng cố thêm phần chính xác về trường hợp “thầy Phanchicô là tác giả” bản kinh trên, chúng tôi xin mời độc giả đọc thêm sau đây một số ghi nhận và tường thuật tỉ mỉ của linh mục Philipphê Bỉnh. Qua đó, có thể hình dung khá rõ nét về lý lịch, tài năng học vị, phẩm hàm, tính hạnh, công trạng, đặc biệt là bối cảnh lịch sử cùng động cơ đã thúc đẩy tác giả đến với giếng thánh trường sinh của Đức Kitô. “Đến khi Người (Jeronimo Majorica) ra kẻ chợ (kinh đô Thăng Long) thì cãi lẽ với mười sư Hòa thượng ở trước mặt nhà Vương (Chúa Trịnh) cùng các quan triều thần văn vũ, mà mười thầy Hòa thượng ấy đều thua lẽ Người. Cho nên sư Hòa thượng thứ nhất cũng là quan văn mà đi tu ở thành Phao mới xin chịu đạo, thì người rửa tội cho, cùng đặt tên thánh là Phanchicô. Từ khi thầy tu ấy chịu phép rửa tội thì chẳng bao giờ về chùa thành Phao nữa, liền xin ở cùng thầy cả Jeronimo mà giúp việc Người thì Người chịu lấy bằng lòng, cùng vui mừng để thầy (Phanchicô) giúp việc giảng giải cùng việc nhà thờ” (Sđđ, trang 28-29).
Đến nay, chúng tôi vẫn chưa có thêm tư liệu về tính danh, quê quán xác thực của tác giả. Riêng việc sử dụng thánh danh hoặc địa danh thay cho tên thật trên tác phẩm – theo chỗ chúng tôi hiểu – mặc dù xem ra có vẻ như là “khuyết danh” thật đấy, song lại phản ánh một thói thường mà người đọc dễ bắt gặp không ít trong mảng kinh truyện cũ ở những thời điểm tương tự. Chẳng hạn J.M.J (Jésus, Marie, Joseph); An-rê Phú Yên; A.M.D.G. (Ad Majorem Dei Gloriam)[5]… Thật vậy, ngay từ thuở bình sinh cũng như lúc qua đời, thầy Phanchicô đã được cả hội dòng (Tên) cùng các giáo đoàn lúc bấy giờ rất trọng vọng bằng cách ghi tạc công ơn vào sử sách để “rao” cho mọi người biết ở nơi công hội. “Thầy ấy là một thầy già có công trong dòng Đức Chúa Giêsu trước hết (ở Việt Nam), cho nên khi Người qua đời thì biên tên Người vào trong vãn ngày lễ linh hồn (2 tháng 11 Dương lịch) cùng các thầy mà đọc rằng: Phanchicô thành Phao, để cho bổn đạo được nhớ đến rằng Người là Sư Hòa thượng ở chùa thành Phao, mà đầu sổ các thầy cả thì có tên thầy cả Alexandre (de Rhodes), vì đến giảng đạo trước hết, đoạn tới tên thầy cả Jeronimo (Majorica) vì có nhiều công nghiệp trong nước ta” (Sđđ, trang 30).
Tưởng không còn gì để hồ nghi nữa. Bằng sở học uyên bác của một bậc thầy đã hiển đạt trong rừng Nho biển Thánh, trầm mình viên mãn trong cảnh khói hương đẫm mùi kinh kệ của Thiền Tông – đặc biệt với nguồn Thần khí tuyệt vời – vị quan văn ở chốn cung đình kia quả thật xứng đáng là người cưu mang và sinh thành ra “Cảm Tạ Niệm Từ” vậy. Cho nên, dù cách đề tựa, cách sử dụng hình thức (thể tứ lục) hoặc cung giọng (Sớ) khi tụng đọc, khi niệm kinh có phảng phất chút gì của mùi thiền đi nữa, âu cũng là cuộc gặp gỡ thánh thiêng của hai tôn giáo hội nhập trong một tâm hồn Việt Nam: Thầy Phanchicô. Và qua cái văn phong vừa thông tuệ vừa hàm súc của Cảm Tạ Niệm Từ, tác giả đã tỏ bày giùm người Kitô hữu Việt Nam nỗi thao thức bồn chồn về lẽ “hóa sinh trụ diệt”, về phận người trước bến bờ hư vô, cát bụi, về một cõi thường hằng là “Sinh ký tử quy”.
Khi mạo muội làm công việc có vẻ như là “Cảo thơm lần giở trước đèn” này, giữa nhịp sống ồ ạt của nền văn minh cơ khí hiện đại, chúng tôi không hề mảy may có một ý đồ thiên trọng, bảo thủ nào. Đãi lọc để giữ ngọc gìn vàng, vốn xưa nay khó. Cho nên, bằng tấm lòng, chúng tôi chỉ muốn chứng minh rằng – cũng như kho tàng văn học dân gian – mảng kinh truyện của nhà đạo bao gồm các thể loại như vè, vãn, chương, khúc, tuồng, cảnh, ca, ngâm…, trong đó có “CẢM TẠ NIỆM TƯ”, thực sự đã sắm một vai trò quan trọng, không những trong đời sống đức tin lòng đạo của người tín hữu Việt Nam, mà còn góp phần vào đời sống ngôn ngữ của dân tộc ta nữa. Bởi vì cho đến nay, trải qua nhiều thế kỷ với muôn nghìn dâu bể hệ lụy rồi, cũng như văn học truyển khẩu, mảng kinh truyện trên đây vẫn không ngừng được ngân nga, xướng diễn trong nhiều cộng đoàn. Ngôn ngữ cùng cung giọng đặc thù của kinh văn nhà dạo, trong một chừng mực nào đó, đã làm cho cái bầu khí, khung cảnh của phụng vụ thêm sắc màu lễ hội, thêm sốt mến thiêng liêng hơn, vì nó rung lên đúng cái tần số, nhịp đập trái tim của người Việt Nam dễ xúc cảm. Hát xướng là cầu nguyện hai lần. Đặc biệt là tháng này, khi tiết trời đã tàn Thu chớm Đông, đọc lại mảng kinh sách, ca vãn cầu hồn như “Tứ Chung, Tứ Mạt Ca, Kinh Cao Sang, Kinh Vực Sâu và Phục Dĩ Chí Tôn”, tôi có cảm tưởng mình đang lãng đãng dật dờ cùng cỏ hoa sương khói trong “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” của bậc thi hào tài hoa Nguyễn Du vậy. Từ Requiem đến Phục Dĩ Chí Tôn.
BẢN HÁN VĂN
“Cảm Tạ Niệm Từ”
Phục Dĩ
1. Chí tôn chân Chủ cửu trùng cao ngự chi thiên:
Khả tiểu phàm khu vạn vựng hữu sinh chi địa.
2. Chiếu lâm bất sảng. Phú tái vô tư.
3. THẦN ĐẲNG THIẾT DUY:
Linh giác tiên nguyên: Hồng mông thủy phán.
4. Tổng huyền khu nhi tạo hóa: Trì diệu pháp dĩ thi hành.
5. Sinh thiên, sinh địa, sinh nhân, cập vật giả Thánh Phụ chi năng toàn;
Thụ khổ, thụ nan, thụ tử, giáng thế giả. Thánh Tử chi duy nhất.
6. Chí nhược linh hồn sung mãn – Sử tri đức nghĩa phú siêu.
7. Hiển hách Thánh Thần; Uy linh hiện hóa.
8. Phán nhiên vị tam tuy dị: Hợp chi thể nhất tương đồng.
9. Nhất trí, nhất hiếu, nhất năng, đồng công vô gián; Chí thiện, chí nhân, chí mỹ, thậm thị linh thông.
10. THIẾT NIỆM LINH HỒN (Mỗ):
Tự tòng sinh tiền: Chí kim tử hậu.
11. Thụ Thiên Chúa cực đại chi ân. Lự thử hồn vô tình chi vật.
12. Bình sinh cư thế, bất thức, bất vụ, bất sự lực khuy.
Vãng nhật đa khiên hoặc tư, hoặc ngôn, hoặc hành hữu mậu.
13. Hoặc bị linh hồn ký hàm minh ngộ, ái dục tam năng, đa vi biệt dụng bất chuyên ức, chuyên mộ, chuyên tư; hoặc bị nhục thân nhĩ mục khẩu tị, thủ túc tứ thể, vọng tác tha kỳ, mãng tuyền kính, tuyền tuân tuyền phụng.
14. Ngẫu tao thử ách: Thống hối vị chân.
15. Ô hô! Sinh nhật dĩ hoàn: Mệnh chung thích chí.
16. Khí linh đãi tận, bồi hồi thuấn tức chi gian: Thiên Chúa thị bằng, cứu trợ úy an chi tế.
17. Huống nẵng thời tập tục sở doanh, vật dụng giai tư ích kỷ: Nhi kim nhật khiên ưu vô kế, thùy năng cứu thoát hồng lô.
18. A! Thần Chủ Datô, thục tội thi ân chi đại – nhân từ Thánh Mẫu vị kỳ xá quá chi đa.
19. Dĩ chí Thiên Thần: Phù trì bản tính.
20. Kỷ niên tằng giáo huấn, cư đa bảo hộ chi lao; kim nhật khất đề huề, khắc thắng cừu thù chi biến.
21. TINH BẢN DANH THÁNH NHÂN.
Bình sinh thân thiết: Mỗi nhật phụng trì.
22. CẬP THÁNH NAM THÁNH NỮ ĐẲNG.
Tại Chủ diện tiền: Vị nhân tình thuyết.
23. Hữu kỳ tất ứng: Vô đảo bất thông.
Phục Vọng
24. Hoàng hoàng Vị Tam; Nguy nguy Thể Nhất.
25. Thiên cao địa hậu, Sanh trì chưởng ác, vô di;
Ngôn viễn thính ti, thưởng phạt khuyến trừng bất lậu.
26. Thần kim khể thủ: Khẩn thiết nghệ cầu.
27. Nguyện thử linh hồn. Khiết thăng thiên quốc.
28. Xuân đài tự tại, chân hưởng phúc chi vô cùng.
Thọ vực tiêu dao tín thường sinh chi hữu vinh.
29. Kinh văn sở đảo, thỉnh chúng đồng âm. Amen.
BẢN DIỄN NGHĨA
Tấu lạy!
Chúa thật chí tôn, ngự trên chín tầng trời cao thẳm
Người phàm hèn mọn sinh ra từ mặt đất thấp
Soi xét chẳng sai, chở che không sót.
Nay tôi trộm nghĩ
Cội rễ khôn thiêng, hỗn mang hé mở
Từ cõi hoang sơ mà tạo dựng
Dùng diệu pháp để thi hành
Chúa Cha toàn năng hóa sinh trời đất vạn vật, nhân loại
Chúa Con duy nhất giáng trần chịu khổ chịu nạn, chịu chết
Cho linh hồn được sung mãn. Cho đức nghĩa được siêu nhiên
Tôn vinh Thánh Thần, hiện thân sáng rỡ
Phân định Ba Ngôi tuy khác
Hợp lại nhất thể như nhau
Một trí, một thảo, một tài cùng nhau không khác
Rất lành, rất nhân, rất đẹp, thật rất linh thông
Trộm nghĩ linh hồn…
Từ thuở sinh ra, sống cho tới thác, lãnh biết bao ơn Chúa mà những vô tình
Sống trên đời chẳng biết chẳng siêng chẳng phụng thờ hết sức
Ngày trước nhiều tội, hoặc nghĩ hoặc nói hoặc làm sai
Hoặc linh hồn đa mang ba điều nghĩ quấy yêu lầm muốn bậy
Làm điều mờ ám, chẳng nhớ chẳng một chẳng suy
Hoặc xác thịt vướng mắc tứ chi tai mắt mũi miệng lầm lỗi
Làm quấy sai ngoa, không kính không tuân không thờ Nay thình lình gặp nạn,
Thống hối chưa nên
Than ôi!
Đời sống đã tàn,
Lâm chung đã tới
Khí thiêng đã hết, đang cơn hoi hóp bồi hồi
Chúa ơi đoái thương, kịp lúc cứu giúp ủi an
Huống hồ khi trước thói mê ràng buộc
Dùng mọi của cải đều là ích kỷ
Nên chi ngày nay tội khiên vô kể
Ai cứu ra khỏi ngọn lửa hỏa hào
Ôi! Đức Chúa Kitô! Ban ơn chuộc tội lớn lao
Lạy Đức Mẹ nhân từ, khấng xin tha thứ
Xin thánh Thiên Thần bản mệnh
Bao năm từng dạy dỗ, công lao gìn giữ xiết bao
Nay xin cầu bầu cứu giúp thắng vượt muôn thù
Lạy thánh Quan thầy
Khi sống đã nâng niu, nay còn bênh đỡ
Lạy các thánh Nam thánh Nữ
Trước nhan Chúa Trời, cầu cho người thân
Có cầu mới được, có khấn mới thiêng
Ngửa trông lên:
Tòa Ba Ngôi cực sáng, một Chúa uy nghi
Trời cao đất rộng giữ gìn, cầm cân nảy mực chẳng sai
Lời xa nghe tỏ thưởng phạt, khuyến dụ răn đe không sót
Nay con sấp mình
Nguyện cầu tha thiết
Xin cho hồn ấy…
Lên chốn Thiên đàng
Đài Xuân an nghỉ, phúc thật vui hưởng cùng chẳng hết
Cõi thọ tiêu dao, thường sinh an lạc vĩnh hằng
Kinh văn lựa bài cầu khẩn
Xin cùng cất tiếng hòa vang.
Amen.
BẢN CHỮ NÔM
BẢN DIỄN NÔM
KINH CAO SANG
1. Lạy ơn Thiên Chúa cao sang
Chín tầng ngự trị thiên đàng liên liên
Loài người mọn mạy phàm hèn
Cùng chung muôn vật ở trên địa cầu.
5. Tính thiêng soi tới khắp thâu,
Suốt thông mọi sự làu làu không sai.
Rất công chẳng chút riêng ai,
Khắp hòa che chở chẳng ngoài kiền khôn.
9. Chúng tôi chút phận dân con,
Trộm đem tấc dạ ngu hôn nghĩ rằng:
Chúa Cha phép tắc khôn chừng,
Linh thông rất mực toàn năng vô cùng.
13. Bởi không rẽ đám hồng mông,
Máy huyền tạo hóa phép thông diệu thần.
Sinh nên trời đất thần nhân,
Cùng chung muôn vật mọi phần tốt xinh,
17. Chúa Con lòng rất nhân lành,
Vì thương thiên hạ giáng sinh chữa đời.
Để tòa cao trọng trên trời,
Liều mình chịu chết thay loài người ta.
21. Thánh Thần Thiên Chúa Ngôi Ba
Uy linh hiện hóa thiết tha ôn tồn.
Cho ta mạnh sức linh hồn,
Đầy lòng đức nghĩa cao tôn khác vời.
25. Ba Ngôi cũng một Chúa Trời,
Một tính một phép Ba Ngôi một giềng.
Trí năng một thể cao sang,
Tốt lành nhân đức vẻ vang rất là.
29. Bây giờ trộm dám suy ra,
Hồn nay đã phải nghiêm tra trước tòa.
Xét từ hồn mới sinh ra,
Chưng nay hồn đã phải qua đời rồi.
33. Chịu ơn Thiên Chúa vô hồi.
Lo hồn hoặc lại luống coi vô tình.
Ở đời những thuở bình sinh,
Chẳng suy chẳng nghĩ việc lành phải chăm.
37. Lòng lo miệng nói mình làm.
Chan chan lỗi phạm sai lầm lắm thôi,
Linh hồn ba phép chẳng noi,
Dùng về nẻo khác lôi thôi nhiều chiều,
41. Từ bề xác thịt ngã xiêu,
Đi càn lối vạy chẳng theo đàng lành,
Kính dâng chẳng vẹn tâm thành.
Phượng thờ chẳng trọn bậc mình sớm trưa.
45. Gặp cơn nguy ách chẳng ngờ,
Ăn năn chưa trọn ngày giờ đã qua.
Than ôi! Giờ chết chẳng xa,
Khí thiêng mong thở hắt ra còn gì.
49. Bồi hồi hoi hóp đang khi,
Cậy trông Chúa Cả phù trì ủi an.
Phương chi ngày trước lo toan,
Ích riêng theo thói thế gian chiều lòng.
53. Lỗi nay khôn kể cho cùng,
Ai hay cứu thoát khỏi vòng hồng lô.
Hỡi ơi! Lạy Chúa Giêsu,
Chuộc đền ơn cả thương cho lúc này.
57. Cậy trông Đức Mẹ nhân thay,
Cầu cùng Chúa Cả lỗi rày thứ cho.
Lại xin Đức Thánh Angiô (= Angelus = Thiên thần),
Bấy lâu gìn giữ hộ phù tính linh,
61. Hằng ngày dạy dỗ đinh ninh,
Đã trông coi sóc thần hình bấy thu.
Rày xin giúp đỡ cần cù,
Để cho thắng được kẻ thù thiêng nay.
65. Cùng xin đấng thánh quan thầy
Vốn từng thân thiết thuở ngày bình sinh.
Hằng hằng đỡ vực che bênh,
Xin Người thương đoái đinh ninh thay lời
69. Lại xin các Thánh trên trời,
Đang chầu chực Chúa ở nơi vui vầy,
Vì tình thương đến hồn này,
Cầu cho chóng được thấy ngày hiển vinh.
73. Như Lời Chúa phán rành rành.
Xin thì sẽ được ơn lành đoái thương.
Sấp mình trông Chúa cao sang,
Ba Ngôi một tính rõ ràng uy nghi.
77. Trời cao đất rộng cực kỳ,
Trong tay quyền phép tóm về kỷ cương.
Cao xa Chúa ngự thiên đàng,
Thấu nghe suốt hết trần gian mọi vùng.
81. Khuyên răn thưởng phạt rất công,
Lưới trời lồng lộng ai hòng trốn thâu
Chúng tôi cả dám khấu đầu,
Hết lòng van thiết âu sầu kêu xin.
85. Rộng tha phần phạt luyện đền,
Cho linh hồn ấy được lên thiên đàng.
Sống lâu hưởng phúc vinh quang,
Đền xuân cõi thọ vẻ vang đời đời.
89. Kinh văn cầu khẩn một bài,
Mọi người xin kết hợp lời. Amen
[1] Philipphê Bỉnh sinh năm 1759 tại Hải Dương. Năm 1775 đi tu ở Kẻ Vĩnh, thụ phong linh mục 1793. Trong 30 năm sống ở Lisbon, trước tác và sao chép trên 30 đầu sách có giá trị về lịch sử ngôn ngữ.
[2] Tên một thành cổ ở Đàng Ngoài, hiện nay chưa phăng tìm ra gốc tích; phải chăng là tên một ngôi chùa ở núi Phao Sơn, xã Phao Sơn thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương và Hưng Yên? Chùa nhìn ra sông Lục Đầu, phong cảnh tươi đẹp (Bắc kỳ giang sơn cổ tích danh thắng bị khảo – Tự điển di tích văn hóa Việt Nam).
[3] Trích “Truyện nước Annam Đàng Ngoài chí Đàng Trong”, Q1 – Nói sự Đàng Ngoài Philipphê Bỉnh viết tay tại kẻ chợ nước Portugal năm 1822, trang 30.
[4] Majorica sinh năm 1591 tại Neapoli (Ý), vào dòng Tên 1605, ở Đàng Trong (1632-1629), ra Đàng Ngoài (1631) cùng với linh mục Bernadino Reggio và sống ở đây tới lúc qua đời 1656), để lại một sự nghiệp đồ sộ, trên 40 tác phẩm (3.678 trang) toàn bằng văn Nôm… (có một số kinh Hán văn)
[5] Để làm rạng danh Chúa. Khẩu hiệu của Dòng Tên. Như phần trên đã nói.
Tác giả bài viết: Lê Đình Bảng
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn