Tuần Tĩnh Tâm Hàng Giáo Sĩ Giáo phận Ban Mê Thuột – 2023
Chiều thứ Hai, ngày 13.11.2023, có khoảng 240 Linh mục Dòng và Triều, các Thầy phó tế, đang phục vụ tại Giáo phận Ban Mê Thuột, đã quy tụ về Tòa Giám mục (số 104 Phan Chu Trinh, TP.BMT) tham dự Tuần Tĩnh Tâm thường niên 2023 của hàng Giáo Sĩ.
Tuần Tĩnh Tâm khai mạc vào lúc 16g30, Cha Stephanô Nguyễn Văn Đậu, Linh mục Tổng Đại Diện, thay mặt Linh mục đoàn, cảm ơn Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản -Giám Quản Giáo phận, mặc dù công việc mục vụ tại Giáo phận Hải Phòng rất bận rộn, nhưng vẫn chăm lo hết mình cho đời sống tâm tinh, tinh thần của anh em linh mục và trong dịp này, đã mời Đức Cha Phêrô Huỳnh Văn Hai, Giám mục Chính tòa Giáo phận Vĩnh Long, đến hướng dẫn thiêng liêng.
Đáp từ, Đức Cha Vinh Sơn -Giám mục Giám Quản, tỏ ra hết sức vui mừng vì các Cha đã có mặt đông đủ. Điều đó chứng tỏ rằng Quý Cha ý thức sâu sắc về sự quan trọng và cần thiết của Tuần Tĩnh Tâm, sự ưu tiên dành cho việc đầu tư năng lượng thiêng liêng. Bởi, không có những giây phút hồi tâm, các linh mục sẽ đánh mất sức bật nội tâm, trở nên trống rỗng và chao đảo định hướng.
17g15, Cha Stephanô Nguyễn Văn Đậu, Linh mục Tổng Đại diện, chủ sự Chầu Phép lành Mình Thánh Chúa Giêsu, khai mạc Tuần Tĩnh Tâm.
19g15, Linh mục đoàn Lần hạt Kinh Mân Côi và viếng mộ hai Đức Cha cố Giuse do Cha Quản hạt Buôn Hô phụ trách.
Sau đó, Đức Cha Phêrô bắt đầu giờ giảng huấn theo Chủ đề: KHỦNG HOẢNG và THỬ THÁCH ĐỜI LINH MỤC.
ĐỀ I:
- Khủng hoảng hiện nay. Linh mục đi tìm chính mình (con số linh mục...).
- Amazonie: truyền giáo thế nào?
- N.Đ. Cuộc chiến tâm linh.
Ngày mai và suốt trong tuần tĩnh tâm, Đức Cha Phêrô tiếp tục trình bày các đề tiếp theo:
ĐỀ II:
- Có nên truyền chức cho những người lập gia đình không?
- Chúng ta có cần những Linh mục không? Giáo hội tương lai cần những Linh mục nào? Bổn phận của một mục tử đích thực là gì?
- N.Đ. Kiên nhẫn.
ĐỀ III:
- Có nên phong chức Linh mục cho phụ nữ không?
- Thế nào là một Linh mục Công giáo ngày nay? Một Linh mục “đích thực” là gì?
- N.Đ. Trung tín trong thời gian.
ĐỀ IV:
- Cuộc sống độc thân có thực sự đem lại hạnh phúc không?
- Linh mục để làm gì? Làm thế nào để trở thành Linh mục?
- Những thách đố đối với Linh mục ngày nay.
- Linh mục ngày nay phải luôn hy vọng một thay đổi tâm linh cuối cùng giữa lòng xã hội chúng ta?
- N.Đ. Hoán cải.
ĐỀ V:
- Giáo hội tìm cách chặn đứng khủng hoảng ơn gọi.
- Khủng hoảng hàng giáo sĩ, một cơ may cho tất cả.
- Trong một Giáo hội đang gặp khủng hoảng, làm thế nào đế giữ được hy vọng? Hy vọng không làm thất vọng.
- N.Đ. Cầu nguyện, một con đường.
ĐỀ VI:
- Linh mục và Thánh lễ.
- 1/ về phía Linh mục; - 2/ về phía Thiên Chúa.
- Cử hành thánh lễ hằng ngày, Bruno Forte.
- Sống Thánh Thể. Dấu chỉ mục tử tốt.
- N.Đ. Cầu thay – Chuyển cầu
ĐỀ VII:
- Mẹ Maria và Linh mục.
- Cử hành các Bí tích với Mẹ Maria
- Những quy định chung;
- Cử hành Thánh lễ với Mẹ Maria:
- Mẹ Maria đã trao ban Thiên Chúa nhập thế cho nhân loại; Linh mục trao ban Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể cho mọi tâm hồn.
- N.Đ. Ngợi khen.
Có khoảng 240 Linh mục Dòng và Triều, các Thầy phó tế
Cha Stephanô Nguyễn Văn Đậu, Linh mục Tổng Đại Diện, chào mừng
Chầu Phép lành Mình Thánh Chúa Giêsu, khai mạc Tuần Tĩnh Tâm
Chầu Phép lành Mình Thánh Chúa Giêsu, khai mạc Tuần Tĩnh Tâm
Lần hạt Kinh Mân Côi và viếng mộ hai Đức Cha cố Giuse
Đức Cha Phêrô Huỳnh Văn Hai, Giám mục Chính tòa Giáo phận Vĩnh Long, giảng huấn
Giờ giảng huấn đầu tiên
Giờ giảng huấn đầu tiên
ngày 13.11.2023
KHỦNG HOẢNG và THỬ THÁCH ĐỜI LINH MỤC – ĐỀ I
Khởi đầu tuần tĩnh tâm, các Linh mục Giáo phận Ban Mê Thuột được Đức Cha Phêrô Huỳnh Văn Hai -Giám mục Chính tòa Giáo phận Vĩnh Long, giảng huấn về Chủ đề: KHỦNG HOẢNG và THỬ THÁCH ĐỜI LINH MỤC.
Ngài mời dừng lại trong hành trình ơn gọi, để thấy được một chút khó khăn trong ơn gọi Linh mục.
- Xã hội đang có nhiều biến động về mọi mặt, vì thế, đời sống dâng hiến của người tín hữu Kitô cũng bị tác động rất nhiều.
- Trong đời sống tôn giáo, vì ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân và nhân quyền, ơn gọi Linh mục đang gặp khủng hoảng lớn cả về nhân sự lẫn chất lượng.
- Vấn nạn Linh mục thật – giả xuất hiện đâu đó, làm cho tinh thần người tín hữu bị dao động, tác động nhiều đến nhận thức của giới trẻ.
Nguyên nhân lớn nhất và hệ trọng tác động nhiều đến sự khủng hoảng đó là thiếu đời sống thiêng liêng. Cuộc chiến tâm linh đang làm cho tâm hồn và niềm tin người tín hữu như đối diện với muôn vàn thách đố. Bên cạnh đó là lời cám dỗ đường mật về vật chất, phương tiện và địa vị, tất cả đang làm cho ơn gọi Linh mục bị khủng hoảng và thiếu trầm trọng.
Lời nhắn gởi của Đức Cha hướng dẫn như đang dẫn anh em Linh mục tìm về với cội nguồn của ơn gọi mình đang sống, tìm lại những giá trị thiêng liêng của thánh chức và tìm đến Đấng đã cho con người thông chia ơn gọi cao quý và thánh thiêng.
Đức Cha Phêrô Huỳnh Văn Hai
KHỦNG HOẢNG và THỬ THÁCH ĐỜI LINH MỤC
TÓM LƯỢC BÀI GIẢNG TĨNH TÂM
ĐỀ I
- KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY. LINH MỤC ĐI TÌM CHÍNH MÌNH (CON SỐ LINH MỤC...).
AMAZONIE: TRUYỀN GIÁO THẾ NÀO?
- N.Đ. CUỘC CHIẾN TÂM LINH.
DẪN NHẬP
Có khủng hoảng về nhiều phương diện Xã hội và Giáo hội trong đó có khủng hoảng về Linh mục. Khủng hoảng có nghĩa là gì? Một sự phát triển nào đó không theo một con đường hài hòa (harmonie). Giống như tất cả mọi thứ của con người, sự khủng hoảng phát triển qua sự hỗn độn của các sự kiện, sự không chắc chắn của các tình huống, các phản ứng cuồng nhiệt, sự quá khích của phe phái, sự đụng độ của nhiều thế hệ trẻ già. Một số người chiến thắng, những người khác không biết phải nghĩ gì. Về vấn đề ơn gọi, trong phạm vi của khủng hoảng, một số nhìn thấy ơn gọi của họ đang suy sụp và thậm chí cả đức tin của họ cũng bị suy sụp. Ở mọi phía, người ta thấy Linh mục đang gặp khủng hoảng. Giải quyết như thế nào? (Biện phân: Đi theo Chúa # Đi theo thế gian).
NỘI DUNG
A. Khủng hoảng ơn gọi: - Con số “đi tu”; con số được thụ phong Linh mục; Con số giáo dân dành cho một Linh mục; Có sự tranh luận với nhau về các thế hệ Linh mục: già, trẻ phục vụ mục vụ.
B. Giải quyết như thế nào? Thí dụ về việc Truyền giáo ở vùng AMAZONIE. Năm mươi chủng sinh ở ĐCV Cát Minh.
* NHÂN ĐỨC. Cuộc chiến tâm linh
Một trong những chuyển động thiết yếu của đời sống tâm linh Kitô giáo là cuộc chiến tâm linh chống lại điều ác. Kinh thánh đã đòi hỏi tín đồ một thái độ như vậy: “Tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi, nhưng ngươi phải chế ngự nó” (Stk 4, 7). Thánh Phaolô, bằng việc sử dụng những hình ảnh chiến tranh và thể thao (chạy, cuộc đấu quyền), nói về đời sống Kitô hữu như một nỗ lực, một sự căng thẳng bên trong để trung thành với Chúa Kitô. Thánh Phaolô nói: đó là “cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin” (I Tim 6,12), cuộc chiến duy nhất có thể được định nghĩa là “tốt”. Do đó cuộc chiến này được sinh ra từ đức tin, từ sự liên kết với Chúa Kitô được biểu lộ qua Bí tích Rửa tội; điều đó xảy ra trong đức tin, nghĩa là, trong sự tin tưởng vào chiến thắng đã được chính Chúa Kitô mang lại; và cuộc chiến này dẫn đến đức tin, để bảo tồn và củng cố đức tin.
Theo truyền thống Kitô giáo, cuộc chiến tâm linh nhằm mục đích canh giữ “sức khỏe tâm linh” của người tín hữu. Cả Kitô hữu phương Đông và phương Tây đã hệ thống hóa các lãnh vực, không gian, nơi phải diễn ra một cuộc đấu tranh như vậy để duy trì tín hữu trong một thái độ lành mạnh, nghĩa là nói về sự hiệp thông và sự hoàn thành. Truyền thống tu viện luôn khẳng định cách mạnh mẽ rằng đời sống đức tin có hình thức của một cuộc chiến không ngừng chống lại những cám dỗ. Nhưng “cám dỗ” nghĩa là gì? Một hành động từ bên ngoài lẫn nội tâm thúc đẩy một hành động xấu, trái với Tin Mừng. Từ giáo lý đã học trong thời thơ ấu, nhiều người nhớ đến danh sách “bảy mối tội đầu”. Gregoriô Đại đế người đã nói về vinh quang vô ích, đố kị, giận dữ, buồn bã, tham lam, háu ăn, gian dâm. Danh sách bảy tội đầu này đã lần lượt làm lại một bảng liệt kê tám ý nghĩ xấu xa do Evagre the Pontic xây dựng, vào thế kỷ thứ tư, và được phổ biến ở phương Tây bởi Jean Cassien.
Évagre đã nói và bắt đầu với mê ăn uống điều này không chỉ liên quan đến mối quan hệ với thực phẩm (và đó cũng không phải là vấn đề tầm thường hóa trong “tội mê ăn uống”), mà là bất kỳ hình thức bệnh lý thuộc về cửa miệng (mà người ta nghĩ về những sự kéo theo phức tạp của chứng ăn vô độ và chứng chán ăn).
Dâm dục chỉ định sự mất cân bằng trong mối quan hệ với tình dục, đặc biệt là xu hướng vật chất hóa cơ thể của chính mình và của người khác, xu hướng tuyệt đối hóa các xung lực và giản lược về một đối tượng của ham muốn, người được gọi là chủ thể của tình yêu.
Hà tiện chắc chắn chỉ định tâm lòng hà tiện, nhưng thành ngữ đề cập sâu sắc hơn đến mối quan hệ với các sự vật (tiền bạc của cải) và tố cáo những xu hướng của con người để cho những gì họ có (tiền bạc của cải) định nghĩa họ (phải là như vậy mới là con người!).
Hờn giận chỉ ra mối quan hệ với những người khác, có thể bị bóp méo bởi sự tức giận đưa đến bạo lực, và nơi mà tín hữu được kêu gọi luyện tập (hoặc, về mặt từ nguyên, sự khổ hạnh) kiên nhẫn và mệt.mỏi chấp nhận sự khác biệt. Nỗi buồn, nhưng cũng là sự thất vọng của những người không sống một cách cân bằng và hợp nhất với thời gian của cuộc sống của chính họ. Con người bị giày vò bởi nỗi buồn tâm linh bị trói buộc bởi nỗi nhớ về quá khứ và những cuộc trốn thoát không có thực trong tương lai, không thể tán thành ngày với hiện tại.
Sự lười biếng, một mối buồn phiền, mệt mỏi, một sự nản lòng triệt để trở thành động lực chết chóc, thậm chí có khuynh hướng tự tử. Trạng thái trầm uất biểu hiện như sự bất ổn tận căn, ghê tởm những gì mà người ta trải nghiệm, mong muốn giản lược về hư không sự hiện hữu của chính mình và trạng thái nầy cho thấy con người không thể sống hòa hợp trong mối tương quan với không gian.
Yêu người chớ ghen ghét. Sự phù vân, là sự cơn cám dỗ để tự xác định chính mình trên cơ sở những gì mà người ta làm, về công việc, về công trình của một người: do đó sự phù vân bao trùm phạm vi của mối quan hệ với cái “làm”.
Cuối cùng, Siêng năng việc đức Chúa Trời chớ làm biếng chỉ định niềm tự hào liên quan đến Thiên Chúa. Đó là sự kiêu ngạo, sự khẳng định bản ngã, thay thế “Thiên Chúa” bằng cái “tôi” của mình.
Không khó để thấy rằng cuộc chiến tâm linh, định nghĩa những lãnh vực này, đại diện cho tất cả các mối tương quan cấu thành cuộc sống, như là “chiến trường” của con người, cuộc chiến tâm linh nầy muốn hướng dẫn tín hữu đến sự trưứng thành cá nhân và đến việc mở rộng sự tự do hoàn toàn. Sự cảnh giác và chú ý là “sự mệt mỏi của trái tim”: thật vậy, chính từ trái tim mà những ý định xấu xuất phát và chính trái tim phải trở thành nhà của Chúa Kitô, nhờ đức tin.
Theo nghĩa này, “sự canh giữ trái tim” là công việc tuyệt vời của con người tâm linh, là điều thiết yếu duy nhất dành cho tất cả mọi người và đặc biệt là dành cho anh em Linh mục chúng ta.
Canh giữ trái tim. Trên hết, việc mở cửa trái tim trong bối cảnh mối quan hệ với một người cha linh hướng; sau đó cầu nguyện và cầu khẩn của Chúa; lắng nghe và nội tâm hóa Lời Chúa “những nỗi lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác xâm chiếm lòng họ, bóp nghẹt Lời” trong lòng con người và “khiến lời không sinh hoa kết quả gì” (Mc 4, 1 9); một cuộc sống của mối tương quan, bác ái mãnh liệt và xác thực. Kế đến, cuộc chiến đấu này đòi hỏi một khả năng cảnh giác cao đối với bản thân và trên nhiều mối quan hệ mà chứng phải lưu ý: - Mối quan hệ với thức ăn, với cơ thể và tình dục, với những thứ (đặc biệt là của cải, tiền bạc), với người khác, với thời gian, không gian, với những gì chúng ta làm và cuối cùng, với Thiên Chúa.
Trong những lãnh vực này, sự cám dỗ luôn thể hiện mình như một sự quyến rũ để sống cá nhân hơn là trong sự hiệp thông. Và vì lý do này, cuộc chiến chống lại cám dỗ nhận được một lời giáo huấn cao siêu của Bí tích Thánh thể, BTTT biểu dương cuộc sống chính xác như một sự hiệp thông với Thiên Chúa và với con người.
Khi chúng ta có kinh nghiệm trong cuộc chiến tâm linh, chúng ta biết rằng cuộc chiến này khó, gian khổ hơn tất cả các cuộc chiến bên ngoài. Nhưng chính nhờ cuộc chiến đấu này mà đức tin trở thành một đức tin vững bền, mà đức tin trở thành sự kiên trì. Chính nhờ cuộc chiến đấu nầy mà tình yêu được thanh lọc và được định hướng. Vị thượng phụ đại kết Athenagoras đã làm chứng: “Để chiến đấu chống lại cái ác một cách hiệu quả, người ta phải biết cách nội tâm hóa chiến tranh để chiến thắng sự dữ trong chính nó. Chúng ta phải tiến hành cuộc chiến khó khăn nhất, đó là cuộc chiến chống lại chính mình. Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến này.
Trong nhiều năm và nhiều năm. Cuộc chiến nầy thật kinh khủng. Nhưng bây giờ tôi bị giải trừ vũ khí. Tôi không còn sợ bất cứ điều gì vì “tình yêu xua tan nỗi sợ hãi”. Không, tôi không sợ nữa. Khi chúng ta không còn gì, chúng ta không còn sợ hãi nữa. “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô?”. Vâng, sự cám dỗ, như Origen đã viết, “làm cho các tín hữu trở thành một vị tử đạo hoặc một thần tượng”.
KẾT
Cầu nguyện. Xin Chúa sai thợ gặt đến gặt lúa của mình Lc 10, 1-9: Chúa Giêsu căn dặn kỹ lưỡng các môn đệ khi sai các ông ra rao giảng. Nhưng yêu cầu thiết yếu là trung thành và khó nghèo theo tinh thần của Chúa. Bởi vì thời đại đã thay đổi thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Ngày xưa đi bộ, đi thuyền, ngày nay đi xe máy, ngày xưa thư từ đi bằng ngựa, ngày nay bằng email... Nghĩa là phương tiện giao thông, giao tiếp liên lạc rất khác nhau. Ngày xưa đi theo Chúa (đi tu) nhiều, ngày nay đi tu ít.
Lạy Chúa, này chúng con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn chúng con làm gì thì xin hãy phán và chúng con xin lắng nghe và thực hành. Xin Chúa ban thêm nhiều thợ gặt, nhiều ơn gọi để có nhân sự cộng tác với Chúa, rao giảng và mở mang Nước Chúa.
ĐGM Phêrô Huỳnh Văn Hai
ngày 14.11.2023
KHỦNG HOẢNG và THỬ THÁCH ĐỜI LINH MỤC – ĐỀ II & III
Hành trình những ngày Tĩnh Tâm hàng giáo sĩ giáo phận Ban Mê Thuột năm nay (2023) bước sang ngày thứ hai. Đức Cha Phêrô Huỳnh Văn Hai tiếp tục đồng hành với các linh mục Ban Mê Thuột trong Tuần Tĩnh Tâm qua bài hướng dẫn thiêng liêng:
ĐỀ II:
- Có nên truyền chức cho những người lập gia đình không?
- Chúng ta có cần những Linh mục không? Giáo hội tương lai cần những Linh mục nào? Bổn phận của một mục tử đích thực là gì?
- N.Đ. Kiên nhẫn.
ĐỀ III:
- Có nên phong chức Linh mục cho phụ nữ không?
- Thế nào là một Linh mục Công giáo ngày nay? Một Linh mục “đích thực” là gì?
- N.Đ. Trung tín trong thời gian.
Trong cuộc khủng hoảng về ơn gọi Linh mục, cả về chất lẫn về lượng, Giáo hội đang đối diện với chủ nghĩa duy giáo sĩ, bên cạnh đó người giáo dân hôm nay đang đòi lại vị trí của họ trong Giáo hội, bên cạnh đó, chức Linh mục thừa tác luôn có phần trổi vượt hơn chức Linh mục cộng đồng, vì thế, sự khủng hoảng đã xảy ra, một bài toán khó đang đòi hỏi câu trả lời thật xác đáng.
Người Linh mục là người từ bỏ mọi sự, cả gia đình, cha mẹ, để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. Người Linh mục phải sống như một môn đệ của Đức Kitô, họ phải chịu trách nhiệm hướng dẫn, dạy dỗ cộng đoàn nơi được gởi tới, sau nữa, họ phải làm sao cho mọi người có thể gặp Chúa Kitô, mang ơn thánh từ các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, tới cho các tín hữu.
Với những bổn phận, trách nhiệm lớn lao thế, có nên truyền chức Linh mục cho người có gia đình không?
- Sẽ tương đối hóa giá trị của luật độc thân Linh mục.
- Người có gia đình sẽ bị chi phối giữa ơn gọi Linh mục và trách nhiệm gia đình.
- Vấn đề nuôi sống gia đình là trách nhiệm của người đứng đầu trong một gia đình, nếu đó là một Linh mục, họ sẽ làm việc thế nào để không bị gọi là thiếu trách nhiệm, cả về bổn phận gia đình và trách nhiệm ơn gọi.
Ngày nay, Giáo hội và giáo dân đang cần những Linh mục như thế nào?
- Một Linh mục mang lấy đặc tính của đức tin: kiên nhẫn với Thiên Chúa trong thánh chức, trong đường khổ nạn với Thầy Chí Thánh.
- Một Linh mục đích thực cần có sự khiêm tốn. Có khiêm tốn, người Linh mục mới nhận ra sự mong manh của bản thân trong mối quan hệ với Thiên Chúa và với giáo dân của mình.
- Một Linh mục đích thực cần có nền tảng đức tin vững chắc. Luôn xác tín niềm tin của mình trước mọi biến cố, không ngã gục trong đau khổ, và khó khăn, không để biến dạng bản sắc riêng của người Linh mục, để hỗ trợ và nâng đỡ người khác trong đời sống hàng ngày.
Để có thể trở thành một Linh mục như lòng Chúa mong ước, cần loại bỏ khỏi suy nghĩ phân biệt trong hàng Giáo sĩ, phân biệt trong công việc và trách nhiệm hiện tại của mình. Tôi không phải là tất cả nhưng chỉ có Chúa mới là tất cả. Tất cả những gì tôi có đều là hồng ân của Chúa cho.
KHỦNG HOẢNG và THỬ THÁCH ĐỜI LINH MỤC
TÓM LƯỢC BÀI GIẢNG TĨNH TÂM
ĐỀ II
- CÓ NÊN TRUYỀN CHỨC CHO NHỮNG NGƯỜI LẬP GIA ĐÌNH KHÔNG?
- CHÚNG TA CÓ CẦN NHỮNG LINH MỤC KHÔNG?
GIÁO HỘI TƯƠNG LAI CẦN NHỮNG LINH MỤC NÀO?
BỔN PHẬN CỦA MỘT MỤC TỬ ĐÍCH THỰC LÀ GÌ?
- N.Đ. KIÊN NHẪN
DẪN NHẬP
Cuộc khủng hoảng về ơn gọi, về con số Linh mục chịu trách nhiệm trên con số giáo dân, và Giáo hội đã và đang trải qua đã nhấn mạnh về một chủ nghĩa duy giáo sĩ nhất định. Trong bối cảnh nầy, nhiều giáo dân đang đòi lại vị trí của họ được công nhận tốt hơn trong Giáo hội. Nhưng chức Linh mục thừa tác của Linh mục thì có phần trổi vượt hơn chức Linh mục cộng đồng của giáo dân. Linh mục là một Kitô hữu đã từ bỏ mọi sự, từ bỏ “cha mẹ, chài lưới, tàu thuyền” và đáp trả tiếng gọi của Chúa. - Trước hết, Chúa kêu gọi Linh mục sống như một môn đệ của Ngài. - Kế đến, trong đời sống Mục vụ phục vụ, Linh mục hướng dẫn dạy dỗ Cộng đồng mà ngài chịu trách nhiệm. - Sau cùng, Linh mục làm cho những người khác thấy Chúa Kitô. Ngài mang ơn Chúa đến cho các tín hữu qua việc cử hành các Bí tích của Giáo hội, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể. Như thế người ta có thể tự hỏi chúng ta có cần những Linh mục không và cần những Linh mục nào? (Biện phân: - Chọn Linh mục: phục vụ Chúa # Chọn người thế gian: lo cho gia đình)
NỘI DUNG
A. Truyền chức cho những người lập gia đình? Giới hạn, vì nó sẽ phát sinh nhiều vấn đề khác: - Lo gia đình; - Bà vợ sẽ làm chủ mọi chương trình mục vụ...
B. Sự cần thiết của Linh mục. Sau những tranh luận về vai trò của người giáo dân trong Cộng đồng Dân Chúa. Một câu hỏi đặt ra: Chúng ta có cần những Linh mục không?
C. Giáo hội cần những Linh mục nào? Về phương diện mục vụ, phương diện Bí tích, người Kitô hữu cần sự đóng góp của Linh mục, nhưng Linh mục như thế nào?
D. Bổn phận của vị mục tử đích thực. - Biết và bảo vệ con chiên của mình vì có kẻ thù về nhiều mặt khác nhau. - Mục tử đích thực phải vị tha; - Đi tìm chiên lạc; - Tinh thần đức tin và sự hy sinh.
** NHÂN ĐỨC. Kiên Nhẫn
Sách Thánh chứng thực rằng kiên nhẫn trước tiên là một đặc quyền thiêng liêng: theo sách Xuất hành 34, 6 Thiên Chúa bao dung và kiên nhẫn (tiếng Do-thái thành ngữ có nghĩa: “chậm giận”). Thiên Chúa ký giao ước với một dân “cứng cổ” chỉ có thể kiên nhẫn. Sự kiên nhẫn này đã thể hiện đầy đủ qua việc gởi Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô và do bởi cái chết của Người cho kẻ có tội, và còn quyết định trong thời hiện tại: “Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải” (2 Pr 3, 9).
Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa trong Kinh Thánh được thể hiện rõ nhất trong cách Ngài nói: Khi nói, Ngài cho con người thời gian để trả lời, và như vậy Ngài chờ đợi con người hoán cải. Nhưng sự kiên nhẫn của Thiên Chúa không đồng nghĩa với sự thụ động; Kiên nhẫn giống như là “hơi thở dài trong cuộc khổ nạn”. Sự kiên nhẫn là biểu thị rõ ràng của tình yêu, một tình yêu “không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ez 33, 11) sự kiên nhẫn là một nghị lực cho việc sám hối ngay cả khi chưa hoàn thành.
Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa tìm thấy ý nghĩa mạnh mẽ nhất trong cuộc khổ nạn và Thánh Giá của Chúa Kitô: Nơi đó, sự bất cân xứng giữa sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và tội lỗi của nhân loại giãn rộng đến vô độ trong cuộc khổ nạn vì tình yêu và nỗi đau của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô bị đóng đinh. Do đó, kiên nhẫn, như là nhân đức Kitô giáo, là món quà của Thánh Thần được ban cho do bởi Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh, và nó được trình bày như sự thông dự vào những năng lực đến từ biến cố phục sinh.
Đối với người Kitô hữu, đặc biệt là các anh em Linh mục chúng ta, đức kiên nhẫn là
1. Đặc tính của đức tin: Nó vừa là sự kiên vững, nghĩa là kéo dài trong thời gian. Tin vào Lời Chúa: mọi sự sẽ xảy đến như Chúa quan phòng.
2. Khía cạnh thứ hai chỉ ra rằng đức kiên nhẫn cần phải khiêm tốn: Kiên nhẫn cho thấy con người nhận thức sự bất toàn cá nhân và phải kiên nhẫn với chính mình; nó giúp nhận ra sự bất toàn và mong manh trong những mối quan hệ với Chúa và với người khác trong đó có giáo dân của mình, và như thế mặc lấy một hình thức kiên nhẫn đối với những người khác;
3. Cuối cùng kiên nhẫn giúp nhận biết kế hoạch cứu rỗi còn chưa hoàn thành, và tự thể hiện như niềm hy vọng, như lời cầu khẩn và đợi chờ ởn cứu độ. Kiên nhẫn là nhân đức của một Giáo Hội chờ đợi Chúa, sống cái điều “chưa” xảy đến một cách có trách nhiệm.
Do đó tại sao đức kiên nhẫn thường được các Giáo phụ định nghĩa như là tổng thể các nhân đức (Tertulien, de la patience I, 7): “Kiên nhẫn là yếu tính của đức tin, đức cậy và đức mến”. Cyprien de Canhage đã viết: “được trở thành Kitô hữu là việc của đức tin và đức cậy, nhưng đức tin và đức cậy muốn đem lại hoa trái thì cần đức kiên nhẫn” (Cyprien, La vertu de la patience 13). Có nền tảng trong đức tin vào Chúa Kitô, đức kiên nhẫn trở nên “sức mạnh của chính mình” (Thomas d’Aquin), có khả năng không thất vọng, không gục ngã trong đau khổ và khó khăn, nó trở nên kiên trì, khả năng duy trì và tồn tại trong thời gian mà không làm biến dạng bản sắc của chính mình, và cũng trở nên có khả năng nâng đỡ và hỗ trợ cho những người khác và lịch sử của họ. Hoạt động tâm linh này không có gì là anh hùng cả, nhưng chỉ dựa trên đức tin được nâng đỡ bởi cánh tay dang ra của Chúa Giêsu trên thập giá. Xin cho chúng ta luôn kiên nhẫn trong ơn gọi của chúng ta.
KẾT
Cầu nguyện. Xin Chúa chiếu sáng Cộng đồng Dân Chúa, cho mỗi người biết vai trò đích thực của mình. Mỗi người một tay, mỗi người một viên gạch xây dựng Hội thánh Chúa. Xin Chúa dẹp bỏ khỏi đầu óc của chúng ta, của mọi người không phân biệt giáo sĩ tu sĩ hay giáo tư tưởng phân bì ganh tị về vai trò phải có của mình. Tôi không phải là tất cả. Nhưng tất cả đều là hồng ân của Chúa. Với ơn Chúa, mỗi thành phần Dân Chúa ra tay làm việc, thì trên trái đất nầy dần dần sẽ thấy xuất hiện nhiều Thánh giá, nhiều Giáo đường và nhiều người nhận biết Chúa.
ĐỀ III
- CÓ NÊN PHONG CHỨC LINH MỤC CHO PHỤ NỮ KHÔNG?
- THẾ NÀO LÀ MỘT LINH MỤC CÔNG GIÁO NGÀY NAY?
MỘT LINH MỤC “ĐÍCH THỰC” LÀ GÌ?
- N.Đ. TRUNG TÍN TRONG THỜI GIAN.
DẪN NHẬP
Giáo dân ngày hôm nay, nam lẫn nữ, muốn tham gia nhiều hơn vào các sinh hoạt mục vụ: ngay cả những công việc dành cho Linh mục. Người phụ nữ trong việc đào tạo Chủng sinh. Người nữ giữ tác vụ Đọc sách và Giúp lễ Feb 20, 2021. “Dành nhiều chỗ hơn cho phụ nữ trong quản trị”. Vì một Giáo hội công nghị hơn (10/11). Kể từ năm 2016, Isabelle Delerive là thành viên của ủy ban Giám mục Giáo phận Créteil. Là phụ nữ và đã kết hôn, bà tin rằng sự hiện diện của phụ nữ trong các ủy ban của Giáo hội là hoàn toàn chính đáng khi họ có những kỹ năng cần thiết và là những người chiến đấu cho công nghị tính 21/05/2021.
Nhưng dù sao đi nữa, vẫn cần Linh mục. Bởi vì, Linh mục tiếp nhận, khuyên bảo, hướng dẫn giáo dân, truyền bá Tin Mừng, những công việc như thế đối với Linh mục là nguồn sống và mục đích cuộc sống của các ngài. Câu hỏi đặt ra: Có nên phong chức Linh mục cho phụ nữ không? Thế nào là một Linh mục, và đặc biệt là một Linh mục đích thực? (Biện phân: Theo thời gian và nơi chốn. Chưa thích hợp cho hoàn cảnh ngày hôm nay).
NỘI DUNG
A. Truyền chức Linh mục cho phụ nữ? Một đề tài đang tranh cãi, các chị đang đòi cái quyền làm Linh mục?
B. Thế nào là một Linh mục Công giáo ngày nay? Một con người được kêu gọi và được chọn; - Một con người say mê phục vụ Chúa và phục vụ con người; - Một con người tự hiến từ bỏ (x. Mc 10, 17-22: Bán của cải, cho người nghèo và đến theo Chúa).
C. Một Linh mục “đích thực” là gì? Bổ túc ý nghĩa trên, Linh mục đích thực hiểu giáo dân, để tâm đến giáo dân; Linh mục biết cầu nguyện; Chức vụ vương đế: điều khiển; Chức vụ tiên tri: rao giảng.
** NHÂN ĐỨC. Trung tín trong thời gian
“Hôm nay ước gì anh em nghe tiếng Chúa” (Tv 95, 7): trong Kinh Thánh, chính giao ước với Chúa xác định thời gian của dân Do-thái, thời gian của dân Chúa; một thời gian hiện sinh, được đo lường trong tương quan với lời nói-biến cố của Chúa, và sự vâng phục của dân Chúa đối với lời này.
Trong Kinh Thánh, thời gian luôn gắn liền với lịch sử cội nguồn của con người, với cấu trúc của tạo vật, mà trong thời hôm nay, thời gian chọn vận mệnh giữa sự sống và sự chết, giữa chúc lành và chúc dữ. Vì thế, lịch sử là hướng về cứu cánh của mình - được mạc khải bởi những can thiệp của Chúa. Đó là một lịch sử cứu độ, bởi vì Thiên Chúa liên tục kêu gọi con người hướng về ánh sáng, về điểm đến Nước Trời, và Ngài cung ứng những phương thế để thực hiện, trong sự chờ đợi món quà của Chúa và triều thiên cho lòng trung tín của con người.
Trong Tân ước. Chính quan niệm này về thời gian (Thời kỳ Cứu độ) mà Tân ước nối dài: “Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa gởi Con của Ngài, sinh bởi một ngườinư” (Gal 4, 4...); Và đời sống của Ngài, cuộc khổ nạn của Ngài, chết-sống lại được mạc khải như những biến cố lịch sử duy nhất xảy ra trong trong một thời gian chính xác, mở đầu cho thời gian sau cùng, trong đó chúng ta chờ đợi Ngài đến trong vinh quang, trong sự chờ đợi Vương Quốc và canh tân tất cả vũ trụ Chúa Giêsu đến lần thứ nhất mặc lấy xác phàm, đã đánh dấu sự khởi đầu của một thời gian thuận tiện xác định tất cả thời gian còn lại. Chúa Giêsu lúc khởi đầu sứ vụ đã loan báo rằng “thời kỳ đã mãn” (Mc 1, 15), phải sám hối và tin vào Phúc âm (Mc 1, 15; Mt 4, 17). Vì thế, phải biết dùng thời gian: thời gian ân sủng là một thực tại trong Chúa Giêsu! Cuộc khổ nạn, chết và sống lại của Chúa Giêsu không chỉ là một biến cố của quá khứ, nhưng là một thực tại của hiện tại, đến mức cụ thể ngày nay đắm mình trong ánh sáng cứu độ. Đây là ngày thuận tiện, ngày cứu độ (x. 2cr 6, 2).
Thái độ trước tiên phải có. - Kitô hữu, đặc biệt là anh em Linh mục chúng ta, khi đối mặt với thời gian là nắm bắt cái ngày hôm nay của Chúa trong ngày hôm nay của chính mình, vâng nghe Lời vang lên ngày hôm nay. Như thế, mối tương quan của chúng ta với thời gian: biết “cắt nghĩa thời điểm” (Mt 16, 3), đạt đến nhận biết “thời giờ được Thiên Chúa viếng thăm” (Lc 19, 44). Mỗi người chúng ta biết rằng thời gian của mình nằm trong bàn tay Thiên Chúa: “Con nói rằng: Ngài là Thiên Chúa của con! Thời gian của con nằm trong tay Ngài” (Tv 31, 15-16). Đó là thái độ cơ bản: thật vậy những ngày của chúng ta không thuộc về chúng ta, không thuộc quyền sở hữu của chúng ta. Thời gian là của Chúa; vì thế, trong những Thánh vịnh, cầu khẩn với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con biết vận cùng của con và những ngày của con có là bao” (Tv 39, 5); “xin cho chúng con biết đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90, 12). Sự khôn ngoan của tín hữu cốt tại biết đếm tháng ngày của mình, biết đọc ra như thời gian thuận tiện, như ngày hôm nay của Chúa xâm nhập vào ngày hôm nay của chính mình.
Thái độ phải có. Kitô hữu phải “tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (Lc 21, 36), dấn thân trong cuộc chiến đấu chống lại ngẫu tượng mà thời gian tha hóa là tượng thần. Theo Thánh Phaolô, Kitô hữu phải tìm cách dừng thời gian thuận tiện để thực hành điều thiện, phải biết lợi dụng thời buổi hiện tại, và nhất là như người khôn ngoan phải cứu vớt, chuộc lại và giải phóng thời gian (x. Ep 5, 16; Col 4, 5).
Kinh Thánh sẽ ra sao, nếu đó không phải là bằng chứng của lòng trung thành dai dẳng và ngoan cường của dân tộc Do-thái, nhưng cũng muốn kể lại lịch sử về sự bất trung của chính họ đối với sự trung thành của Thiên Chúa? Nhưng làm thế nào nhận biết lòng trung thành của chúng ta nếu không khởi đi từ lòng tin vào Đấng trung thành? Theo nghĩa này, Kitô hữu, anh em Linh mục chúng ta được gọi là trung thành, khi chúng ta là những người có khả năng nhớ những hành động của Thiên Chúa: Trung thành trong thời gian sẽ được những gì? và ngược lại bất trung trong thời gian sẽ được những gì? Và đây chính xác là điều xảy ra, ngay trung tâm đời sống Giáo Hội, trong mầu nhiệm Thánh thể.
Trung tín trong thời gian: Phải luôn luôn trung thành với Chúa, trung thành với ơn gọi Linh mục. Cho dù có những khuyết điểm, nhưng với thời gian, hy vọng thắng thất vọng, chúng ta sẽ sám hối (Hoán cải) trở về.
KẾT
Cầu nguyện. Chúng ta dường như luôn luôn có một điều gì đó trong cuộc sống của chúng ta, có một cái gì đó làm trở ngại cho việc đi theo Chúa. Những trở ngại có vẻ không thể vượt qua; nhưng chúng ta học ngày hôm nay rằng không có điều gì là Thiên Chúa không làm được. Chúng ta hãy mời Chúa vào đời sống chúng ta và vào những nỗ lực của chúng ta để đối mặt với một điều gì đó, khủng hoảng. Chúng ta có những quyết định hoặc ra đi với sự buồn bã hoặc với hạnh phúc. Chắc chắn là chúng ta nên chọn hạnh phúc. Chúng ta phải lựa chọn sự đối mặt với một điều gì đó với sự can đảm của chúng ta. (x. Mc 10, 17-22: Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.). Xin Chúa giúp chúng ta can đảm bước đi theo Chúa, cho dù phải thiệt thòi.
ĐGM Phêrô Huỳnh Văn Hai
ngày 15.11.2023
KHỦNG HOẢNG và THỬ THÁCH ĐỜI LINH MỤC – ĐỀ IV & V
Hành trình những ngày Tĩnh Tâm hàng giáo sĩ giáo phận Ban Mê Thuột năm nay (2023) bước sang ngày thứ Ba. Đức Cha Phêrô Huỳnh Văn Hai tiếp tục đồng hành với các linh mục Ban Mê Thuột trong Tuần Tĩnh Tâm qua bài hướng dẫn thiêng liêng:
ĐỀ IV:
- Cuộc sống độc thân có thực sự đem lại hạnh phúc không?
- Linh mục để làm gì? Làm thế nào để trở thành Linh mục?
- Những thách đố đối với Linh mục ngày nay.
- Linh mục ngày nay phải luôn hy vọng một thay đổi tâm linh cuối cùng giữa lòng xã hội chúng ta?
- N.Đ. Hoán cải.
ĐỀ V:
- Giáo hội tìm cách chặn đứng khủng hoảng ơn gọi.
- Khủng hoảng hàng giáo sĩ, một cơ may cho tất cả.
- Trong một Giáo hội đang gặp khủng hoảng, làm thế nào đế giữ được hy vọng? Hy vọng không làm thất vọng.
- N.Đ. Cầu nguyện, một con đường.
Chuẩn bị Thánh lễ buổi sáng
Đoàn rước
Đức Cha Vinh Sơn chủ tế
KHỦNG HOẢNG và THỬ THÁCH ĐỜI LINH MỤC
TÓM LƯỢC BÀI GIẢNG TĨNH TÂM
ĐỀ IV
- CUỘC SỐNG ĐỘC THÂN CÓ THỰC SỰ ĐEM LẠI HẠNH PHÚC KHÔNG?
- LINH MỤC ĐỂ LÀM GÌ? LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRỞ THÀNH LINH MỤC?
- NHỮNG THÁCH ĐỐ ĐỐI VỚI LINH MỤC NGÀY NAY
- LINH MỤC NGÀY NAY PHẢI LUÔN HY VỌNG MỘT THAY ĐỔI TÂM LINH CUỐI CÙNG GIỮA LÒNG XÃ HỘI CHÚNG TA?
- N.Đ. HOÁN CẢI.
DẪN NHẬP
Có nhiều loại thử thách khác nhau, mà trong đó vấn đề là làm thế nào để sống chức tư tế một cách đích thực. Như đề tài III chức tư tế đích thực rất là lý tưởng, trong đó Linh mục phải thực hiện: Linh mục đích thực hiểu giáo dân, để tâm đến giáo dân; Linh mục biết cầu nguyện; Chức vụ vương đế: điều khiển; Chức vụ tiên tri: rao giảng để làm sao cho mọi người thấy được Chúa Kitô. Rất lý tưởng, nhưng cũng còn một thách thức khác. Đời sống độc thân của hàng Linh mục. Đứng trước những “gian nan” thử thách như thế, Linh mục chúng ta có nên ngã lòng, thất vọng, trốn chạy không, hay là chúng ta phải luôn luôn có niềm hy vọng vào Chúa? Chúa có dư thừa khả năng để giúp Linh mục thực thi chức Linh mục đích thực đúng nghĩa. Linh mục đích thực có những bổn phận nào? (Biện phân: Độc thân, tận hiến trọn vẹn hơn # lập gia đình...)
NỘI DUNG
A. Cuộc sống độc thân. Sống độc thân có mang lại hạnh phúc không?
B. Linh mục để làm gì? Linh mục làm cho con người thấy Chúa Kitô. Linh mục là con người của Lời, Bí Tích và Sứ mạng.
C. Làm thế nào đe trở thành Linh mục? Không phải là vấn đề của văn bằng, nhưng phát triển tài năng được Chúa giao phó.
D. Những thách đố mới về hoàn cảnh và môi trường hiện tại, nhưng Linh mục luôn hướng dẫn mọi người tin vào Chúa.
E. Linh mục ngày nay rao giảng những điều khó hiểu, nhưng qua những lời này, hy vọng sẽ thay đổi tâm linh nhiều người.
* NHÂN ĐỨC. Hoán cải
“Hãy hoán cải và tin vào Phúc âm!” (Mc 1, 15); “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”! (Mt 4, 17). Đòi hỏi hoán cải là trọng tâm của lời rao giảng lúc khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu. Nối tiếp những đòi hỏi trở về với Chúa của ngôn sứ Osê, của Giêrêmia và tất cả các ngôn sứ cho đến Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu, chính Ngài cũng kêu gọi hoán cải nghĩa là trở về với Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Đó cũng là điều mà các Tông đồ và Giáo hội sơ khai rao giảng, và đó cũng là điều Giáo hội đòi hỏi và dấn thân trọn cuộc sống. Đó cũng là điều mà anh em Linh mục chúng ta cần phải thực hiện, vì con người giới hạn của chúng ta.
Động từ “Hoán cải” nghĩa chính xác là “quay trở lại”, liên kết với từ gốc cũng có nghĩa là “trả lời”, làm cuộc hoán cải luôn đổi mới cuộc trở về với Chúa, là trách nhiệm của Giáo Hội trong toàn thể và trong mỗi cá nhân. Hoán cải thực tế không chỉ là một đòi hỏi đạo đức, vì nó làm cho chúng ta sự xa lánh các ngẫu tượng và những con đường tội lỗi (x 1 Ga 5, 21), nhưng hoán cải được thúc đẩy và đặt cơ sở trên cánh chung học và Kitô học: trong tương quan với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô và Nước Thiên Chúa, thực tại của hoán cải tìm thấy đầy đủ ý nghĩa trong Chúa Kitô. Duy mình Giáo Hội coi trọng đức tin mới có thể sống chiều kích của hoán cải. Hãy xem cách sống hoán cải nơi những nhân vật đầu tiên mà Giáo Hội có thể tự giới thiệu như nhân chứng đáng tin cậy của Tin Mừng trong dòng lịch sử. Nhưng nếu không hoán cải người ta không thể rao giảng ơn cứu rỗi và hoàn toàn không thể đòi hỏi người khác thay đổi.
Trong bài giảng của Jean Chrysostome có một đoạn hay thế này: “Bạn không thể giảng ư? Bạn không thể diễn tả giáo thuyết bằng lời? Vậy hãy dạy bằng hành động và tư cách của bạn, hỡi người bạn tân tòng? Khi người ta thấy bạn xấu xa, tham lam, bây giờ thay đổi, sám hối, người ta sẽ nói như những người Do-thái thấy người mù từ thuở mới sinh được chữa lành: “Có phải hắn không? - Phải, chính hắn – không phải, ai đó giống hắn thôi...”. Nói tóm lại, hoán cải cũng là hình thức của việc sống đức tin.
Một vấn đề đặt ra ở đây cho phần đông Kitô hữu: Thông thường họ trở thành Kitô hữu do truyền thống gia đình được Rửa tội lúc mới sinh, được học giáo lý và dẫn vào đời sống Giáo hội. Họ không biết được sự thay đổi trước đó và sau này, từ tình trạng chưa phải là Kitô hữu, chuyển sang đức tin, theo nghĩa hẹp là việc hoán cải. Đồng thời người ta nhận thấy ngày nay nhiều người trở lại sau nhiều năm xa rời đức tin. Họ nói trở lại bởi vì họ gặp Chúa Kitô. Hiện tượng hoán cải tái hiện như thế nơi những xứ Kitô giáo cựu trào và điều đó có thể giúp các Kitô hữu hiểu rằng hoán cải là chính yếu; Điều đó giúp họ hiểu rằng đời sống Kitô hữu luôn luôn là hoán cải và canh tân. Cũng giống như thế, anh em Linh mục chúng ta ở trong gia đình Công giáo, trong một Xứ đạo, đi vào Chủng viện, được đào tạo, ra đi phục vụ... Trong môi trường rất tốt, nhưng vẫn có khuyết điểm, cho nên cần phải hoán cải, trở về...
Sự hoán cải chứng thực sự trẻ trung vô tận của Kitô giáo. Anh em Linh mục chúng ta là người luôn biết nói: “Hôm nay tôi bắt đầu lại”. Sự hoán cải sinh ra từ niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô: không một sự sa ngã, không một tội lỗi nào có tiếng nói cuối cùng trong đời sống anh em Linh mục chúng ta, nhưng lòng tin vào sự phục sinh khiến chúng ta tin vào lòng thương xót của Chúa hơn là những yếu đuối của chính mình, và khiến anh em chúng ta trở lại con đường biết vâng phục và tin tưởng.
Grégoire de Nysse đã viết: trong đời sống Kitô hữu, người ta đi “từ khởi đầu này đến khởi đầu khác, luôn khởi đầu và không có chấm dứt”. Vâng, Kitô hữu, anh em Linh mục chúng ta và Giáo Hội luôn cần hoán cải, bởi vì phải luôn nhận thức luôn luôn có những thần tượng, nên anh em chúng ta phải luôn đổi mới cách chiến đấu chống lại chúng, Linh mục phải chứng tỏ sự tối thượng của Chúa trên các thực tại và trong cuộc đời. Nhìn chung trong Giáo Hội, sống hoán cải có nghĩa là nhận biết rằng Thiên Chúa đang chờ đợi mọi người. Điều đó ngụ ý rằng anh em Linh mục chúng ta sống chiều kích cánh chung, sống mong đợi Nước Chúa đến. Và Giáo Hội loan báo Tin mừng bằng sự hoán cải của chính mình.
KẾT
Cầu nguyện. Ngày hôm nay, xảy ra trên đất nước có nhiều phong trào thờ phượng, phụng vụ mới lạ! Anh em Linh mục chúng ta phải đối diện, đối diện thật sự, nhưng không ngã lòng thất vọng. Hãy tin tưởng vào Chúa. Phần chúng ta cố gắng sống đúng tinh thần của người Linh mục đích thực. Sống thực tiễn, chớ không phải sống lý thuyết. Sống thực tiễn, chớ không phải sống để được người đời khen tặng. Sống thực tiễn, chớ không phải sống để mưu cầu lợi ích cá nhân, bỏ quên con chiên của mình, không chăm sóc con chiên bệnh hoạn, không đi tìm con chiên lạc, bỏ quên lợi ích Giáo hội, bỏ quên lợi ích cho danh Chúa cả sáng. Xin Chúa giúp chúng ta.
ĐỀ V
- GIÁO HỘI TÌM CÁCH CHẶN ĐỨNG KHỦNG HOẢNG ƠN GỌI.
- KHỦNG HOẢNG HÀNG GIÁO SĨ, MỘT CƠ MAY CHO TẤT CẢ.
- TRONG MỘT GIÁO HỘI ĐANG GẶP KHỦNG HOẢNG,
LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIỮ ĐƯỢC HY VỌNG? HY VỌNG KHÔNG LÀM THẤT VỌNG.
- N.Đ. CẦU NGUYỆN, MỘT CON ĐƯỜNG.
DẪN NHẬP
Đối mặt với việc giảm số lượng ghi danh vào các Chủng viện, Giáo hội đã phát động một chiến dịch kêu gọi những người trẻ tuổi đến với chức Linh mục. Rất may là ở Việt Nam, trong các Giáo phận, con số ơn gọi vẫn còn đáng mừng. Nhưng cũng có những Giáo phận con số đó cũng giảm dần, và phải nhờ những Giáo phận khác giúp đỡ. Ở Âu Châu, tương lai Giáo hội Pháp, chủng sinh giảm, con số chuyển hướng cũng khá nhiều, và sau khi được thụ phong trong một thời gian, một số Linh mục xin hồi tục? Như thế vai trò của người giáo dân, người được Rửa tội ở đâu? Trong một Giáo hội đang gặp khủng hoảng, làm thế nào để giữ được hy vọng, bởi vì hy vọng không làm thất vọng? (Biện phân: Cầu nguyện, Hy vọng hơn là # thất vọng)
NỘI DUNG
A. Giáo hội tìm cách chặn đứng khủng hoảng ơn gọi? Bằng cách nào? Phải quảng bá Linh mục là gì, tinh thần Linh mục là gì?
B. Khủng hoảng hàng giáo sĩ, một cơ may cho tất cả? Nhờ những thiện nguyện viên khác nhau trong hàng tu sĩ và giáo dân, chớ không có dành riêng cho giáo sĩ hay Giáo phận.
C. Làm sao giữ vững niềm hy vọng cho sự tồn vong của ơn gọi, của mọi sinh hoạt của Giáo hội? Hãy tin tưởng vào Chúa: “Thầy đây. Đừng sợ” (Jn 6, 20); - Hãy chiến đấu vì danh Chúa, chiến đấu đến cùng.
D. Hy vọng sẽ không làm thất vọng (Rm 5, 5). – Hy vọng rằng ngày mai sẽ tốt hơn.
** NHÂN ĐỨC. Cầu nguyện, một con đường
“Việc khó nhất là cầu nguyện”. Biết bao nhiêu Tu sĩ đã nhận được câu trả lời này từ bậc tiền bối... Và khó khăn vẫn tồn tại theo thời gian, ngay cả khi nó mang ý nghĩa khác nhau. Mỗi thế hệ, và mọi người ở mỗi thế hệ, có bổn phận thâu thập di sản của kinh nguyện và trách nhiệm tái định nghĩa. Tái định nghĩa bằng cách sống kinh nguyện!
Định nghĩa cầu nguyện. Ngày nay người ta khó hiểu định nghĩa của cầu nguyện từ Đông chí Tây và cầu nguyện là “nâng tâm hồn lên Chúa”. Sau Auschwitz, người ta đặt câu hỏi về khả năng cầu nguyện. Nhưng để trả lời, tôi tin rằng người ta không phải giới hạn thay thế danh hiệu “Toàn Năng” mà người ta luôn gán cho Thiên Chúa, bằng danh hiệu “Bất Lực” (nói về sự “yếu đuối”, của Thiên Chúa). Theo tôi hiểu, bằng cách này, người ta luôn còn trong lý luận thần học. Mặt khác, nói cách nghiêm túc, sự kiện có nhiều người cầu nguyện đã chết, ở Auschwitz cũng như nhiều nơi khác như địa ngục trần gian, tôi nghĩ rằng có thể hiểu cầu nguyện như con đường tín hữu hướng về Chúa. Hay hơn nữa, ý thức về một con đường. Như vậy, cầu nguyện Kitô giáo xem ra là khoảng không gian thanh luyện những hình ảnh về Thiên Chúa. Cầu nguyện để đến với Thiên Chúa được mạc khải trong Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại, một hình ảnh thực sự của Chúa muốn trao cho nhân loại.
Nếu cầu nguyện là trò chuyện giữa Thiên Chúa và con người, lắng nghe Lời Chúa thiêng liêng chứa đựng trong Kinh Thánh và đáp trả của con người (đáp trả cũng bao gồm trách nhiệm), bấy giờ cầu nguyện trở thành con đường mở ra cho con người chiều kích hiệp thông với Chúa và với những người khác. Cầu nguyện trở thành một sự thích nghi của con người với môi trường thần linh, sống trước mặt Chúa và với Chúa, tương quan với Chúa. Trong cầu nguyện, trái tim, nghĩa là trung tâm của con người, tập trung vào Đấng nói, Đấng kêu gọi và con người ra khỏi chính mình để đi vào trong “sự xuất thần”, ra khỏi chính mình để nhận biết và gặp gỡ Thiên Chúa. Và cầu nguyện cũng không bao giờ hoàn thành: cầu nguyện là cuộc tìm kiếm gương mặt của Thiên Chúa, tìm kiếm không ngừng, ngay cả khi không bao giờ có thể lý giải đầy đủ về gương mặt của Thiên Chúa.
Kitô hữu ý thức: Cầu nguyện là con đường hướng về Thiên Chúa. Một Thiên Chúa vô hình và thinh lặng: Ngài không vắng mặt, nhưng hiện diện, che khuất sự hiện diện phía sau sự thinh lặng; Ngài là Người Cha luôn mời gọi các con cái của Ngài. Như thế, cầu nguyện, là hình thức tương giao với Đấng mà người ta không nhìn thấy, thinh lặng, có thể trả lời lời mời gọi này bằng cách dẫn người cầu nguyện tự biết mình, trong khi hướng dẫn đến việc tìm kiếm Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của con người dâng lên Thiên Chúa là sự đáp trả cho lời cầu nguyện mà Thiên Chúa gởi đến con người. Trong sự đối thoại này, toàn thể con người bị chìm ngập: chờ đợi, câu hỏi, ước muốn, tương quan... và cầu nguyện nhận thức nhiều diễn biến: cám ơn, cầu khẩn nguyện giúp, cầu xin...
Khuôn mẫu của cầu nguyện Kitô giáo là lời cầu nguyện của Giêsu, Con Thiên Chúa: Dường như Lời cầu nguyện của Ngài không được Chúa Cha đáp lại lúc trong vườn Giêsêmani, khi Chúa Giêsu xin Cha cho “giờ này qua đi”, xin cho khỏi uống chén đắng, nhưng hoàn toàn theo ý của Cha, và không phải theo ý của con. Cầu nguyện không phải là sự thăng hoa ước muốn của con người, cầu xin Chúa thực hiện ý muốn của chúng ta, nhưng đó là con đường qua đó phát sinh lòng biết ơn và chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa. Từ đó luôn có một nhận thức tốt hơn về Thiên Chúa và tạo ra sự tương quan thích nghi với nhận thức đó. Kinh nghiệm cho thấy cầu nguyện thay đổi nơi cùng một con người theo dòng thời gian. Chỉ bằng cách này, cầu nguyện là mối tương quan thật sự với Thiên Chúa, một tương quan luôn sống động và không suy giảm. Cùng đích của con đường này là làm cho đời sống cá nhân phù hợp với hình ảnh Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô.
KẾT
Cầu nguyện. Mỗi cuộc khủng hoảng cho chúng ta một kinh nghiệm, một cơ hội để phát triển và phục vụ tốt hơn. Ở các quốc gia trên thế giới đặc biệt là Ecuador và Châu Mỹ Latinh, cuộc khủng hoảng hiện tại của Giáo hội đòi hỏi một sự đổi mới sâu sắc, một cơ hội cần được nắm bắt để xây dựng một Giáo hội trung thành hơn với Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Xin Chúa giúp chúng ta nhìn lại căn tính của hàng giáo sĩ và cơ cấu của các thành phần Dân Chúa trong Giáo hội và tự hỏi: Tại sao lại có những Giám mục, Linh mục từ chức, từ bỏ nhiệm vụ của mình? Xin Chúa, giúp chúng ta sống gần với giáo dân của mình, không sống theo tinh thần giáo sĩ trị. Và xin Chúa ban niềm hy vọng cho chúng ta. Dù thế nào chăng nữa, dường như Chúa ngũ phía sau con thuyền (x. Mc 4, 35-41), nhưng có Chúa chúng ta luôn hy vọng một điều gì đó tốt đẹp hơn. Amen.
ĐGM Phêrô Huỳnh Văn Hai
ngày 16.11.2023
KHỦNG HOẢNG và THỬ THÁCH ĐỜI LINH MỤC – ĐỀ VI & VII
Hành trình những ngày Tĩnh Tâm hàng giáo sĩ giáo phận Ban Mê Thuột năm 2023, bước sang ngày cuối. 16 giờ 30 chiều nay, sau giờ Kinh, các Linh mục Chầu Mình Thánh Chúa Giêsu, Tuyên hứa linh mục. 19 giờ 30, Đức cha Giám quản gặp chung Linh mục đoàn Giáo phận.
Trong buổi sáng và đầu giờ chiều, Đức Cha Phêrô Huỳnh Văn Hai tiếp tục đồng hành với các linh mục Ban Mê Thuột trong Tuần Tĩnh Tâm qua bài hướng dẫn thiêng liêng:
ĐỀ VI:
- Linh mục và Thánh lễ.
- 1/ về phía Linh mục; - 2/ về phía Thiên Chúa.
- Cử hành thánh lễ hằng ngày, Bruno Forte.
- Sống Thánh Thể. Dấu chỉ mục tử tốt.
- N.Đ. Cầu thay – Chuyển cầu
ĐỀ VII:
- Mẹ Maria và Linh mục.
- Cử hành các Bí tích với Mẹ Maria
- Những quy định chung;
- Cử hành Thánh lễ với Mẹ Maria:
- Mẹ Maria đã trao ban Thiên Chúa nhập thế cho nhân loại; Linh mục trao ban Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể cho mọi tâm hồn.
- N.Đ. Ngợi khen.
Trong giờ hướng dẫn thiêng liêng
Trong Thánh lễ ban sáng
Toàn cảnh Hội trường
Ban VHTT – GP.BMT
TÓM LƯỢC BÀI GIẢNG TĨNH TÂM
KHỦNG HOẢNG và THỬ THÁCH ĐỜI LINH MỤC
ĐỀ VI
- LINH MỤC VÀ THÁNH LỄ.
- 1/ Về phía Linh mục; - 2/ Về phía Thiên Chúa.
- CỬ HÀNH THÁNH LỄ HẰNG NGÀY, Bruno Forte.
- SỐNG THÁNH THỂ. DẤU CHỈ MỤC TỬ TỐT.
- N.Đ. CẦU THAY – CHUYỂN CẦU
DẪN NHẬP
Trong thời điểm của Kỹ thuật số, trong thời điểm của dịch bệnh Covid- 19, chúng ta đang chứng kiến một sự “sôi động” của các Thánh lễ, cầu nguyện, bài giảng, thông qua Facebook, WhatsApp và các phương tiện truyền thông khác. Thánh lễ trực tuyến (Online). Chúng ta nghĩ sao?
Đó cũng là một điều tốt để thể hiện lòng nhiệt thành vô cùng từ phía các Linh mục. Và dẫn đến việc tái xác định bản chất của ơn gọi mục tử này. Đối với Chúa, thì tốt, vì Linh mục trực tiếp dâng Thánh lễ, các Linh mục tôn thờ Chúa. Chúa ban ơn cho các ngài. Nhưng ở đây, điều mà các Linh mục thiếu không phải là Bí tích Thánh Thể, mà là Đoàn chiên của một mục tử. Đoàn chiên không có chủ chăn hướng dẫn để thờ phượng Chúa cho đúng nghĩa. Các Linh mục dâng Thánh lễ để làm gì? (Biện phân: Nhiệt thành dành giờ cho Thiên Chúa, nhất là BTTT hơn, # Dành giờ giải trí).
NỘI DUNG
A. Linh mục và Thánh lễ. Một ngày của Linh mục: - Các Linh mục tôn thờ Chúa, tưởng niệm lại cái chết sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, qua Bí tích Thánh Thể, Chúa Kitô đồng hành với chúng ta Ngài là sức mạnh và của ăn đàng cho chúng ta, và Ngài biến chúng ta thành những chứng nhân hy vọng cho tất cả anh em chúng ta (Ecclesia de Euchanstia, số 62). - Thiên Chúa thể hiện tình yêu của Ngài qua Người Con của Ngài, Ngài sẽ hiện diện ở giữa dân Ngài qua bàn tay Linh mục trong Thánh lễ.
B. Cử hành Thánh lễ hằng ngày. Hằng ngày, bởi vì mỗi người chúng ta đều cần có lương thực nuôi sống. - Chúng ta luôn luôn nhớ Chúa, chớ không phải chỉ nhớ có một ngày trong một tuần!
C. Sống Thánh thể. Dấu chỉ Mục tử tốt. - Tác vụ Thánh thể; - Chiều kích Giáo hội; - Sống với Chúa: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19-20). - Cùng với Mẹ, chúng ta sống với Chúa (Ecclesia de Eucharistia, số 62).
** NHÂN ĐỨC. Cầu thay - Chuyển cầu
Trong lời cầu nguyện, chúng ta mang cả cuộc đời chúng ta. Và chúng ta là những “sinh vật” có quan hệ với những người khác: những người khác là một phần của chúng ta, mối quan hệ với những người khác góp phần xác định chúng ta là gì và chúng ta trở thành gì. Trong lời cầu nguyện, khi xưng hô mình là con của Thiên Chúa Cha, chúng ta cũng nhận được sự xác nhận về tình huynh đệ ràng buộc chúng ta với những người khác. Sự cầu thay là lời cầu nguyện bày tỏ cách hiển nhiên nhất tình trọn vẹn sự hiện hữu của chúng ta như một mối quan hệ với Thiên Chúa và với con người.
Và sự cầu thay cũng cho thấy sự thống nhất sâu sắc giữa trách nhiệm, cam kết lịch sử, bác ái, công bằng, đoàn kết, một mặt, và cầu nguyện, mặt khác.
Định nghĩa Cầu thay. Trong thực tế, cầu thay có nghĩa là gì? Về mặt từ nguyên học, cầu thay (intercedere) có nghĩa là “thực hiện một cách tiếp cận giữa”, “xen kẽ” giữa hai bên; điều này cho thấy một sự thỏa hiệp tích cực, thực hiện nghiêm túc cả mối quan hệ với Thiên Chúa và với những người khác. Cụ thể, nó thực hiện một tiếp cận với một người có lợi cho người khác. Để diễn giải Thánh vịnh 85, 11, người ta có thể nói rằng trong việc cầu thay “đức tin và tình yêu gặp nhau”, “đức tin vào Thiên Chúa và tình yêu cho con người hôn nhau” (Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên). Cầu thay không khiến chúng ta phải nhắc nhở Thiên Chúa về nhu cầu của con người, bởi vì Người biết chúng ta cần gì (x. Mt 6, 32), nhưng nó làm chúng ta mở ra cho nhu cầu của người khác.
Mục đích. Tác động kép này, cuộc hành trình giữa Thiên Chúa và con người, vốn in sâu vào chúng ta sự căng thẳng giữa, một mặt, tuân theo ý muốn của Thiên Chúa đối chúng ta, đối với người khác và đối với lịch sử, và, mặt khác, lòng thương xót đối với con người, sự cảm thông đối với những người trong hoàn cảnh tội lỗi, nhu cầu của họ, sự khốn khổ của họ, giải thích tại sao sự cầu thay, trong Kinh Thánh, hơn bao giờ hết là nhiệm vụ của mục tử của dân, của nhà vua, của Linh mục, của ngôn sứ, và nó tìm thấy đại diện đầy đủ và toàn bộ của mình trong Chúa Kitô, “Đấng trung gian độc nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (I Tm 2, 5).
Cầu thay trong Cựu ước. Mong muốn sâu sắc của ông Gióp tìm thấy sự thỏa mãn của ông: “Nếu có, lạy Chúa, giữa Ngài và tôi, một trọng tài đặt tay lên Ngài và tôi, trên vai Ngài và trên vai tôi” (x. G 9, 33). Ở đây ông Gióp yêu cầu một người can thiệp? Nếu trong Cựu Ước, chúng ta tìm thấy biểu tượng của người can thiệp ở Môsê giơ tay lên trời, đứng trên núi, giữa Aaron và Hur, họ đỡ nâng tay ông, để đảm bảo chiến thắng cho những người đang chiến đấu dưới đồng bằng (Xh 17, 8-16), thì trong Tân ước, biểu tượng là Chúa Kitô bị đóng đinh, vâng, với Chúa Kitô và Chúa Kitô bị đóng đinh, Người vươn tay trên thập tự giá để đưa tất cả mọi người đến với Thiên Chúa. Chúa Kitô bị đóng đinh đặt một tay lên vai của Thiên Chúa và tay kia trên vai của con người. Sự can thiệp vì thế có thể đi xa đến tận hiến dâng mạng sống, gián tiếp thay thế thập giá! Ông Môsê, trong lời cầu thay của mình cho các con cái Israel, đã diễn tả rõ điều đó: “Xin Ngài tha thứ cho tội lỗi của chúng! Nếu không, thì xin Ngài xóa tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết” (Xh 32, 32). Để cầu thay, chúng ta học cách dâng mình cho Chúa, cho người khác và sống hiến lễ này một cách cụ thể, hàng ngày.
Sự chuyển cầu dẫn chúng ta đến trọng tâm của đời sống Kitô hữu có trách nhiệm. Trong tình liên đới hoàn toàn với những người tội lỗi và thiếu thốn, chúng ta cũng là những người tội lỗi và thiếu thốn, chúng ta đi một bước, chúng ta bước vào hoàn cảnh con người, hiệp thông với Thiên Chúa, Đấng đã nhận trong Đức Kitô bước quyết định cho sự cứu rỗi loài người. Người Tôi Trung của Thiên Chúa cầu bầu cho tội nhân bằng cách nhận lấy tội lỗi của họ, hình phạt dành cho họ, mang những tật nguyền và yếu đuối của họ (Is 53, 11). Do đó, Đức Kitô, qua việc nhập thể và chịu chết trên thập giá, đã hoàn thành lời chuyển cầu triệt để, hoàn thành bước quyết định giữa Thiên Chúa và loài người, và từ đó sống mãi mãi với Thiên Chúa, Người tiếp tục chuyển cầu cho chúng ta, như Linh mục Thượng Phẩm giàu lòng thương xót (Dt 7, 25). Bàn tay của Người trên vai chúng ta là cơ sở cho sự tín thác và sự táo bạo của chúng ta, panhesia của chúng ta: “Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đúc Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8, 34).
Ân sủng của Thần Khí giúp chúng ta tham dự vào sự chuyển cầu của Chúa Kitô. Thần Khí hướng dẫn chúng ta cầu nguyện “theo quan điểm của Thiên Chúa” (x. Rm 8, 26-27), nghĩa là làm cho lời cầu nguyện và cuộc sống của chúng ta phù hợp với lời cầu nguyện và cuộc sống của Chúa Kitô. Chỉ trong Thánh Linh, Đấng lôi chúng ta thoát khỏi cá tính khép kín, chúng ta mới có thể cầu nguyện cho người khác khiến người khác ở trong chúng ta và đưa họ đến trước mặt Thiên Chúa, thậm chí cả đến cầu nguyện cho kẻ thù của chúng ta, một bước cần thiết để yêu kẻ thù của chúng ta (Mt 5,44).
Có một sự hỗ tương chặt chẽ giữa cầu nguyện cho người khác và tình yêu dành cho người khác. Thậm chí chúng ta có thể nói rằng đỉnh cao của sự cầu thay không bao gồm nói quá nhiều lời trước mặt Thiên Chúa, nhưng trong cuộc sống trước mặt Thiên Chúa trong tư thế của Đấng bị đóng đinh, với cánh tay dang rộng, trung thành với Thiên Chúa và liên đới với loài người. Và đôi khi, để duy trì mối quan hệ với người khác, chúng ta hoàn toàn không thể làm gì khác ngoài việc cầu nguyện, cầu thay cho họ. Do đó, rõ ràng rằng sự cầu thay không phải là một chức năng, một bổn phận, một điều gì đó mà người ta làm, nhưng là bản chất của một cuộc sống được hiến dâng bởi tình yêu của Thiên Chúa và của loài người. Giáo Hội nên nhớ tất cả những điều này: là gì khác nếu không phải là sự cầu thay cạnh Thiên Chúa cho mọi người? Đây là việc phục vụ thực sự hiệu quả mà Giáo hội được kêu gọi cung cấp cho thế giới. Một việc phục vụ trong thế giới xác định Giáo hội không phải tham gia vào một cuộc thập tự chinh nữa, mà là được đánh dấu bằng thập tự giá!
KẾT
Cầu nguyện. Mượn lại những tâm tình của Thánh Tôma Aquinô trong Ecclesia de Eucharistia, số 62. “Lạy mục tử nhân lành, bánh tích thực, xin thương xót chúng con. Xin nuôi dưỡng chúng con, che chở chúng con. Xin cho chúng con nhìn thấy thiện hảo tuyệt vời trong cõi đất dành cho kẻ sống. Chúa biết và có thể làm mọi sự, Chúa là lương thực của chúng con trên trần gian này, xin đem chúng con lên cõi cao xanh để là thực khách và thừa kế muôn đời trong gia đình các thánh”.
ĐỀ VII
- MẸ MARIA VÀ LINH MỤC.
- CỬ HÀNH CÁC BÍ TÍCH VỚI MẸ MARIA
- NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG;
- CỬ HÀNH THÁNH LỄ VỚI MẸ MARIA:
- MẸ MARIA ĐÃ TRAO BAN THIÊN CHÚA NHẬP THẾ CHO NHÂN LOẠI;
LINH MỤC TRAO BAN CHÚA GIÊSU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ CHO MỌI TÂM HỒN.
- N.Đ. NGỢI KHEN.
DẪN NHẬP
Theo Thánh Tôma Aquinô, chính từ cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô mà các Bí Tích tìm được sức mạnh, và nhờ việc lãnh nhận các Bí Tích, chúng ta được liên kết với cuộc Khổ Nạn. Bởi được tham dự vào cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô, Mẹ Maria xứng đáng ban phát cho chúng ta những gì mà Đức Kitô muốn ban tặng cho chúng ta. Do đó, ân sủng của các Bí Tích đến với chúng ta chính yếu từ Đức Kitô và từ Mẹ Maria. Trong việc cử hành các Bí Tích, trước hết Linh mục chỉ là dụng cụ của Đức Kitô, kế đến là dụng cụ của Mẹ Maria. Nhận thức về mối liên hệ đặc biệt với Mẹ Maria có thể làm tăng thêm lòng hăng say của Linh mục khi cử hành các nghi lễ thánh này. Linh mục có cần hiệp nhất với Mẹ Maria để có thể nhận thức đầy đủ hơn về sự trao ban Chúa Giêsu qua các Bí Tích và đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể không? (Biện phân: Luôn nhờ Mẹ Maria con đến với Chúa Giêsu, nhưng tôn kính (Vénérer) Mẹ, chớ không phải là tôn thờ Mẹ (Adorer)).
NỘI DUNG
A. Linh mục cử hành Bí Tích với Mẹ Maria. – Linh mục cử hành bảy Bí Tích với Mẹ Maria trong tinh thần, ý nghĩa và mục đích.
B. Linh mục cử hành Bí Tích Thánh Thể với Mẹ Maria. Mẹ Maria đi theo Chúa Giêsu, đứng chân thập giá nhìn cái chết của Con mình, Mẹ Maria có một phần trong Hy tế trên đồi Calvariô.
C. Mẹ Maria và Linh mục trao ban Chúa cho chúng ta. Mẹ Maria đã trao ban Thiên Chúa Nhập thể cho nhân loại; Linh mục trao ban Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể cho mọi tâm hồn
* NHÂN ĐỨC. Ngợi khen
Lời cầu nguyện Kitô giáo nằm giữa hai cực “than khóc” và “ngợi khen”. Về phần ngợi khen, chúng ta nghĩ nó đặc biệt khó nói. Ngợi khen đến với chúng ta mang nặng sự phán đoán về tính xuất sắc so với các hình thức cầu nguyện khác, một phán đoán lặp đi lặp lại bởi truyền thống Kitô giáo, viện dẫn sự thuần khiết, sự vô vị lợi, của ngợi khen. Nhưng nếu ngợi khen mang nặng sự so sánh giữa vượt trội và thấp kém thì không phù hợp với tính nhưng không của ngợi khen, mà nên hiểu tính cách nội tâm của chuyển động liên hệ và đối thoại của cầu nguyện.
Ngợi khen và cầu xin bao gồm lẫn nhau, và chính sự phân cực của chúng, sự bổ sung của chúng, làm cho lời cầu nguyện trở thành một mối quan hệ cân bằng và xác thực. Mối quan hệ cân bằng và xác thực này không có ý định (độc quyền cầu xin), cũng không ca tụng (độc quyền khen ngợi), mà là cuộc gặp gỡ thực sự (không lý tưởng), xảy ra trong lịch sử, trong cuộc sống cụ thể, giữa một người và Thiên Chúa, Đấng hiện diện trong lịch sử bằng những điều kỳ diệu của tình yêu của Người, khơi dậy đáp trả ngợi khen, hoặc người ẩn đằng sau những bí ẩn của đau khổ, chết chóc, thống khổ gợi lên lời kêu xin, than thở, cầu khẩn. Trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, lời khen là ngôn ngữ thể hiện sự chấp nhận và đánh giá tích cực của người khác; bình thường, thậm chí, ngôn ngữ của các tình nhân. Trong lời cầu nguyện, chúng ta có thể nói rằng lời ngợi khen là tình yêu đáp lại tình yêu: với tình yêu của Thiên Chúa, được công nhận trong các sự kiện của cuộc sống, chúng ta đáp lại bằng cách ca ngợi, nghĩa là bằng cách nhận ra Người Khác trong sự vĩ đại của các tác phẩm của Người và quà tặng của Người. Và người nhận được lời khen ngợi luôn luôn là Thiên Chúa, không phải là các công trình và quà tặng của Người: lời cầu nguyện ngợi khen là hướng thần (hướng về Chúa).
Ngợi khen là Amen, là “Dạ vâng” của con người đối với Thiên Chúa và việc làm của Người: một tiếng “Vâng” hoàn toàn và vô điều kiện. Chính xác là như vậy, lời ngợi khen của chính Chúa Giêsu: “Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11, 25-26). Và lời ngợi khen của Kitô hữu lặp lại tác động này, được tìm thấy trong Chúa Kitô chất xúc tác của nó: tất cả những lời hứa của Thiên Chúa đều có tiếng “Dạ vâng” trong Chúa Giêsu Kitô; cũng như nhờ Chúa Kitô mà chúng ta nói Amen với Thiên Chúa vì vinh quang của Người (2 Cr 1, 20). Phụng vụ dạy người Kitô hữu cầu nguyện, mô tả đặc tính mùa Phục sinh bằng cách luôn lặp đi lặp lại một cách tiếng reo mừng “Alleluia” (“Ngợi khen Chúa”), và do đó nhấn mạnh rằng món quà tuyệt vời của Thiên Chúa là Chính Chúa Con, đã chết và sống lại để cứu rỗi loài người. Đó là hành động cứu rỗi của Thiên Chúa Ba Ngôi, được thể hiện đầy đủ trong sự kiện phục sinh, khơi dậy lời cầu nguyện ngợi khen của Giáo hội.
Khía cạnh ngợi khen như “Amen” hướng về Thiên Chúa, như lời thú nhận về sự khác biệt và sự hiện diện của Người, khiến chúng ta hiểu rằng ngợi khen và tin là đồng nghĩa với nhau về cơ bản: Ngợi khen diễn tả khía cạnh tôn vinh đức tin. Không phải ngẫu nhiên mà trong Kinh thánh, ngợi khen thường phát sinh sau khi phân biệt đức tin từ sự can thiệp của Chúa vào lịch sử. Đó là trường hợp, ví dụ, bài ca của Môsê, được chèn vào sau khi nhận ra thực tế rằng đó là Thiên Chúa, bằng hành động của mình, đã đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập (x. Xh 15).
Do đó cần phải nói rằng so với lời cầu xin thì lời ngợi khen vượt trội hơn, vì lời ngợi khen như là chân trời bao trùm chính lời cầu xin nữa? Lời cầu xin giả định phải có ngợi khen và hướng về ngợi khen: lời cầu xin dựa trên lời ngợi khen, trong đó nó thú nhận và cầu khẩn Danh Chúa, và nhận ra rằng nó không thể dựa vào bất kỳ ai khác ngoài chính Thiên Chúa, vì Người đã từ bỏ người tin (“Lạy Chúa của con, lạy Chúa của con, tại sao Ngài từ bỏ con?” (Tv 22, 2); lời cầu xin hướng về ngợi khen, vì nó hy vọng được nhìn thấy khuôn mặt được biết đến và yêu mến của Chúa. Đó là lý do tại sao các Thánh vịnh cầu khẩn thường mở ra lời ngợi khen (Tv 22; 31; 69 v.v…); và đó là lý do tại sao tác giả Thánh vịnh, khi than khóc kiếp lưu đài của mình, về sự xa cách Thiên Chúa, có thể kêu lên: “Tôi còn tán tụng Người” (Tv 42, 6.1). Các lời cầu nguyện vinh danh thuộc Tân ước của Sách Khải Huyền đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh hy vọng này, và sự ca ngợi trong tương lai, khi nói về cuộc sống vĩnh cửu bằng cách mô tả nó bằng sự ngợi khen của các tín hữu: đó rõ ràng là sự khẳng định mối quan hệ trở thành hiện diện rõ ràng của tín hữu trước mặt Thiên Chúa.
Nhưng nếu lời ngợi khen tổng hợp dưới hình thức cầu nguyện các chiều kích của đức tin, bác ái và hy vọng, thì rõ ràng đó là cuộc sống mà người tín hữu được kêu mời để sống (là ngợi khen): chúng ta được định sẵn để “ca ngợi vinh quang Thiên Chúa” (Eph 1, 14). Ca ngợi được kêu gọi trở thành chính cuộc sống của người tín hữu: khi một người yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu người lân cận như chính mình, thì người ta muốn ca ngợi bằng cả trái tim, nghĩa là sống và chết trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Thật ý nghĩa khi truyền thống Kitô giáo trình bày sự tử đạo cho chúng ta như một mẫu gương ngợi khen được sống đến cùng, như một “Amen” được nhân cách hóa. Chiều kích ngợi khen, rất dày đặc và rất cơ bản trong lời cầu nguyện, cho chúng ta thấy rằng nó được nuôi dưỡng bởi một loạt các ngôn ngữ, cá nhân và cộng đồng. Chúng bao gồm từ bài ca đến tiếng thì thầm, từ hân hoan đến niềm vui bên trong, từ lời nói đến sự im lặng: “Đối với Ngài, lạy Chúa, ngay cả sự im lặng cũng là lời ca ngợi” (Tv 65, 2). Vì vậy, trong im lặng, lời ngợi khen trở thành sự hiện diện lòng với lòng của người yêu đối với Người tình của mình.
KẾT
Cầu nguyện. Xin Chúa giúp Linh mục chúng ta luôn hiệp ý với Mẹ Maria khi cử hành các Bí Tích. Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con biết đón nhận Chúa, rước Chúa với một chút tình yêu của Mẹ. “Ôi Maria không vướng tội nhơ, xin cầu cho chung con là kẻ trông cậy vào Mẹ”. Với Mẹ Maria, Linh mục chúng ta cần phải có tinh thần cảm tạ, bày tỏ tình yêu của mình đối với Chúa, trong những nghịch cảnh, dám hiến dâng chính mình như là của lễ, và Linh mục chúng ta luôn cảm thấy sự giới hạn của mình và thỉnh cầu ân sủng xuống trên mình và tha nhân. Nhờ Mẹ Maria, xin Chúa giúp đỡ chúng ta.
ĐGM Phêrô Huỳnh Văn Hai
Ban VHTT – GP.BMT
Tác giả bài viết: Ban VHTT – GP.BMT
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn